Tên di sản : Dân Ca Dân Vũ Đông Anh

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Nghệ thuật trình diễn dân gian

Sô quyết định : 00/QĐ-BVHTTDL

Danh mục di sản: Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia,

Giới thiệu

V. MIÊU TẢ VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ:

5.1. Vị trí địa lý và truyền thống lịch sử - văn hóa

5.1.1. Vị trí địa lý - hành chính

Làng Viên Khê nơi ra đời của nghệ thuật trình diễn dân gian Dân ca dân vũ Đông Anh được hình từ rất sớm. Theo “Truyền thuyết về Cao Hoàng” (tức Hoàng đế Lê Ngọc) thì những cư dân đầu tiên đến Viên Khê vào khoảng thời Tùy (608 - 618), cùng với sự ra đời của đô thị cổ Đồng Pho (thuộc xã Đông Hòa, Đồng Ninh huyện Đông Sơn ngày nay), vốn là một trấn thành của quận trị Cửu Chân đầu thời Bắc thuộc.

Theo sách “Tên làng xã Việt nam đầu thế kỷ XIX từ Nghệ Tĩnh trở ra” thì đến cuối thời Lê đầu thời Nguyễn, Viên Khê đã là một đơn vị hành chính cấp xã, trong tổng số 24 xã, thôn, sở của tổng Lê - Nguyễn, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa”. Dưới thời vua Đồng Khánh (1885 - 1888), xã Viên Khê là một trong 16 xã, thôn thuộc tổng Tuân Hóa (trong tổng số 9 tổng) thuộc huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Sau cách mạng tháng Tám 1945, xóa bỏ đơn vị hành chính cấp tổng, thành lập các xã; huyện Đông Sơn lúc này có 22 xã, trong đó có xã Tuyên Hóa bao gồm địa giới của xã Đông Anh (xóm Nhân, xóm Chính, xóm Lợi, xóm Nghĩa, xóm Thanh, xóm Quý, xóm Thọ); xã Đông Thịnh và thị trấn Rừng Thông (xóm Nghĩa, thôn Nhuệ Sâm, Cáo Thôn, Xuân Lưu, Phúc Hậu). Năm 1948, do chủ trương sát nhập, 22 xã còn 13 xã; xã Tuyên Hóa được đổi thành xã Đông Anh, vẫn giữ nguyên vị trí hành chính cũ. Năm 1953 huyện Đông Sơn lại chia 13 xã thành 22 xã, xã Đông Anh được chia thành 3 xã gồm các xã Đông Anh, Đông Xuân, Đông Thịnh. Xã Đông Anh thời kỳ này gồm có 3 làng: Tuyên Hóa (gồm xóm Nhân, xóm Chính, xóm Lộc, xóm Nghĩa), Thanh Oai (xóm Thanh), Viên Khê (xóm Quý, xóm Thọ).

Ngày 5 - 7 - 1977, theo Quyết định số 177/CP của Hội đồng chính phủ, 16 xã hữu ngạn sông Chu của huyện Thiệu Hóa sát nhập vào huyện Đông Sơn để thành lập huyện Đông Thiệu; xã Đông Anh thuộc huyện Đông Thiệu. Năm 1982, theo Quyết định số 149/QĐ-HĐBT ngày 30/8/1982, huyện Đông Thiệu đổi lại là huyện Đông Sơn, 16 xã nêu trên thuộc huyện Thiệu Hóa, huyện Đông Sơn trở lại đơn vị hành chính cũ; xã Đông Anh lúc này thuộc huyện Đông Sơn.

Hiện nay xã Đông Anh có các làng: Thanh Oai, Viên Khê (chia thành Viên Khê 1, Viên Khê 2, Viên Khê 3), Tuyên Hóa (chia thành Tuyên Hóa 1, Tuyên Hóa 2, Tuyên Hóa 3).

5.1.2. Truyền thống lịch sử - văn hóa.

Nằm ở trung tâm đồng bằng châu thổ sông Mã, xã Đông Anh nói riêng, huyện Đông Sơn nói chung là vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời với những cái nôi văn minh lớn được biết đến trên cơ sở những thành tựu của khảo cổ học trong gần 100 năm qua, đó là:

Di tích của người nguyên thủy Việt Nam thuộc sơ kỳ Thời đại đá cũ cách ngày nay từ 30 - 40 vạn năm được phát hiện ở núi Đọ (nay thuộc xã Thiệu Tân, Thiệu Khánh - Thành phố Thanh Hóa, trước đây thuộc đất huyện Đông Sơn), đã góp phần minh chứng vùng đất này là một trong những quê hương của loài người. Đây cũng là một di chỉ khảo cổ học được các nhà khảo cổ học chứng minh là nơi chứng kiến bước chuyển mình vĩ đại của nhân loại từ vượn thành người!

Những chứng tích vật chất về sự tồn tại và phát triển của con người ở buổi đầu Thời đại kim khí cách ngày nay trên dưới 4000 năm cho đến sơ kỳ Thời đại đồ sắt cách ngày nay hơn 2000 năm được phát hiện dày đặc trên đất Đông Sơn, với nhiều loại hình công cụ tiêu biểu đã khẳng định vùng đất Đông Sơn thời các vua Hùng dựng nước là một trung tâm quan trọng của quận Cửu Chân. Với những truyền thống văn hóa, văn minh đặc sắc, di tích khảo cổ học Đông Sơn đã trở thành tên gọi của một nền văn hóa, một nền văn minh tiêu biểu của người Việt cổ thời kỳ dựng nước đầu tiên: Văn minh Đông Sơn, trong đó trống đồng Đông Sơn đã trở thành một biểu tượng của văn minh Việt cổ - một đóng góp quan trọng vào kho tàng văn hóa của nhân loại.

Dưới thời kỳ Bắc thuộc, Đông Sơn lại trở thành vùng đất trung tâm quận trị của Cửu Chân mà những dấu vết về vật chất vẫn còn bảo tồn đến ngày nay, đó là Thành Tư Phố (Thiệu Dương - thành phố Thanh Hóa), Thành Lê Ngọc (xã Đông Hòa, Đông Ninh, huyện Đông Sơn) đã minh chứng thêm về công cuộc đấu tranh kiên cường của con người vùng đất Đông Sơn trong “Đêm trường Bắc thuộc” gần 1000 năm.

Đến thời phong kiến tự chủ, Đông Sơn cũng là cái nôi sinh ra những anh hùng hào kiệt, những nhà văn hóa lớn của đất nước như Dương Đình Nghệ, Lê Văn Hưu, Lê Quát, Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Chích...mà tên tuổi của họ đã sáng ngời trong sử sách.

Bên cạnh truyền thống lịch sử, vùng đất Đông Sơn cũng là nơi sản sinh nuôi dưỡng và bảo tồn một kho tàng đồ sộ về văn hóa vật chất và tinh thần được hình thành từ hàng nghìn năm trên vùng đất cổ, đó là: ca dao, tục ngữ, phương ngôn, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, phong tục tập quán, các loại hình diễn xướng dẫn gian và một hệ thống di tích lịch sử văn hóa phong phú và đặc sắc. Mỗi loại hình đều có những nét chung của văn hóa truyền thống cả nước, vừa có những nét riêng độc đáo làm nên sự đặc thù của văn hóa truyền thống ở đây.

Riêng đối với xã Đông Anh, cho đến nay vẫn còn bảo tồn được một hệ thống di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu: làng Tuyên Hóa thờ vị quận công thời Lê; làng Viên Khê, Thanh Oai thờ Thần rắn cụt đuôi, Hoàng đế Lê Ngọc (thời Tùy 608 – 618); nghè Đông Giáp thờ Chế Nghiệp – quan Thái Thú (con nuôi Lê Ngọc); các ngôi chùa thờ Phật như chùa Đông Giáp, Yên Hòa, chùa Đào, chùa Đậu; Từ đường các dòng họ như họ Nguyễn thờ quận công Nguyễn Đăng Tuyển (thời Lê), họ Lê thờ Mai Hoa công chúa; họ Lê Thọ thờ Tổng binh xử trí Kim Sơn Lê Cương Đoán (thời Lê), họ Lưu Huy thờ Lưu Huy Quang (thế kỷ XII); đặc biệt, đây còn là quê hương của nhà thơ Nguyễn Mộng Tuân – một khai quốc công thần nổi tiếng trong khởi nghĩa Lam Sơn ở thế kỷ XV.

Về truyền thống văn hóa dân gian: Xã Đông Anh được biết đến với một kho tàng 12 trò diễn dân gian tiêu biểu của cư dân đồng bằng sông Mã như: diễn xướng Múa Đèn, trò Xiêm Thành, Tô Vũ, Tiên Cuội, Trống Mỹ, Hà Lan, Trò Thiếp, Trò Thủy, Văn Vương, Trò Ngô, Trò Hùm, Tú Huần.

5.2. Miêu tả nghệ thuật trình diễn Dân ca dân vũ Đông Anh:

5.2.1. Quá trình ra đời, tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể

Dân ca Đông Anh là cách gọi tắt của di sản văn hóa phi vật thể Dân ca dân vũ Đông Anh vì di sản này khi trình diễn đồng thời cả hai hình thức múa và hát đều cùng thực hiện trong một không gian và thời gian nhất định. Di sản này được xếp vào loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm các tổ khúc múa hát về 12 trò diễn trong toàn bộ hệ thống di sản Dân ca dân vũ Đông Anh.

Trước đây, di sản Dân ca dân vũ Đông Anh được gọi là "ngũ trò", sau này do quá trình tiếp biến văn hóa, các nghệ nhân đã du nhập thêm nhiều trò diễn nữa nên hệ thống trò diễn Đông Anh rất phong phú, gồm có: Trò Múa Đèn, trò Tiên Cuội, trò Tô Vũ, trò Trống Mỏ, trò Thiếp, trò Văn Vương, trò Thủy, trò Xiêm Thành, trò Hà Lan, trò Tú Huần, trò Ngô Quốc, trò Nữ Quan...Trong số các trò diễn này thì trò Xiêm Thành, trò Tô Vũ không có lời ca, còn lại đều có lời ca, điệu múa được lồng ghép, đan xen, hỗ trợ nhau tạo thành những làn điệu dân ca trữ tình làm lay động lòng người.

Về nguồn gốc của di sản:

Thứ nhất, theo tục truyền: Người con trai cả của Hoàng đế (Thái Thú) Lê Ngọc là Lãng Đại vương (còn gọi là Chàng Cả Lãng Đại Vương) là thủy tổ của các trò chơi, trò diễn điệu hát ở 3 tổng Tuân Hóa, Quảng Nạp, Thạch Khê (trước đây bao gồm các làng: Viên Khê, Đoàn Xá, Xuân Lưu, Cáo Thôn, Phúc Hậu, Phù Lưu, Viễn Dương, Cao Xá, Đại Nẫm – nay thuộc các xã Đông Anh, Đông Xuân, Đông Thịnh huyện Đông Sơn); sau này được người dân ở đây gọi là Dân ca dân vũ Đông Anh. Tục truyền, Lãng Đại vương thường về tận thôn, xóm để chung vui với nhân dân, từ đó các điệu hát múa được truyền dạy và phổ biến cho mọi người ở trong tổng. Như vậy, Dân ca dân vũ Đông Anh có thể có niên đại xuất hiện từ thời Tùy – Đường, từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ VII!

Thứ hai, theo các cụ già ở địa phương cho biết: những điệu múa, điệu hát được lưu truyền đến ngày nay từ thế kỷ XI (triều Lý), nhưng lúc đó chưa được dàn dựng thành màn diễn mà người dân chỉ hát vào những lúc lao động mệt nhọc trên đồng áng hay vào những dịp mùa xuân trẩy hội. Đến cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, lúc này ở tổng Thạch Khê, có ông Nguyễn Mộng Tuân đỗ tiến sĩ vào cuối triều Trần, làm quan ở trong triều, một lần về quê ông đã thấy người dân ở quê ông có những điệu hát múa rất hay, nhân đó đã cùng bà con sáng tác ra 12 điệu múa hát bao gồm: Múa đèn, Tiên Cuội, Trò Thiếp, Vằn Vương, Thủy Phường, Xiêm Thành, Hà Lan, Tú Huân, Ngô Quốc, Nữ Quan, Ai Lao và Tô Vũ. Và từ đó trở đi, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu trong chu kỳ một giáp, các làng của tổng Quảng Nạp, Tuấn Hóa và Thạch Khê đều tổ chức trò diễn và chấm điểm thi tại lễ hội Nghè Sâm ở làng Viên Khê. Tục truyền, lễ hội Nghè Sâm là một lễ hội lớn trong vùng, cứ ba năm một lần vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi – người dân ở các làng trong tổng đều chọn Nghè Sâm làm nơi để tổ chức lễ hội và thi diễn trò.

Nghè Sâm là nơi thờ thần hoàng của làng Viên Khê, hàng năm diễn ra tế lễ rất linh đình và nghiêm trang; còn sân nghè là nơi để các làng trong tổng thể diễn trò và hát múa. Những làng xã nào có trò diễn hay nhất thì được quyền làm chủ lễ và được phân bổ việc đóng góp của các làng; phụ trách việc mua sắm lễ vật để tế thần; điều khiển lễ hội và phân bổ lễ vật cho các làng sau hội lễ.

Thứ ba, các tài liệu thành văn viết về hệ thống trò diễn gắn liền với dân ca dân vũ Đông Anh hiện nay cũng chưa được tìm thấy. Tuy nhiên, trong hệ thống trò diễn của dân ca dân vũ Đông Anh cóTrò Ngô là một tích truyện có liên quan đến ghi chép của Lê Quý Đôn. Ông cho rằng từ thời Trần đã có “Bắc vũ” được ghi chép vào Lễ Bộ chương như sau: “Lễ Bộ chương thứ 3 chép, các vai trình nghề có “bách bộ cách gọi là Tây” (?), có “Bắc vũ” gọi là thằng Ngô, có “Đãng Du” gọi là Con Bợm, có “Xuyên dương cách gọi là mụ đĩ, có “Nhiêu vũ” gọi là Nhiêu Oanh, có “Hiển Can”, “Phú Vũ” gọi là Nhiêu Lập, có “Man vũ” gọi là Nhiêu hiếu, có “Giao điệt” gọi là đánh vật, có “Trung thằng đê bình”, có “Thượng thằng”, “Bát vũ” gọi là múa bát đều theo nhạc nhà Trần”.

Những ghi chép nêu trên của Lê Quý Đôn cho biết, đến thời Trần đã có “Bắc vũ”, gọi là múa Thằng Ngô theo nhạc nhà Trần. Điều đó cho thấy, Trò Ngô không phải là trò diễn cung đình mà là trò diễn dân gian được triều đình ghi vào “Lễ Bộ chương”. Đây là một trò diễn được hình thành khá sớm so với những trò diễn dân gian được biết.

Với những nguồn tài liệu nêu trên cho thấy, tổ hợp vũ khúc múa hát Dân ca dân vũ Đông Anh xuất hiện rất sớm; loại trừ yếu tố truyền ngôn thì Trò Ngô được xem là một trong “Ngũ trò” khởi đầu của Dân ca dân vũ Đông Anh thì niên đại ít nhất từ thời Trần đã có điệu hát múa này, theo ghi chép của Lê Quý Đôn!

5.2.2. Các trò diễn

5.2.2.1. Trò múa đèn:

Ý nghĩa của Trò Múa Đèn

Múa đèn (còn được gọi là diễn xướng Múa Đèn) được một số nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Thanh Hoá xếp vào loại hình múa hát tổng hợp của Dân ca dân vũ Đông Anh. Thực chất, đây là một trò diễn tổng hợp, có nhiều lớp văn hoá cổ, liên quan đến lịch tiết nông nghiệp.

Múa đèn là một vũ khúc có lời ca gồm mười đoạn, nội dung nói về công việc sản xuất của nhà nông trong cả một năm lao động. Gọi Múa Đèn, vì khi biểu diễn trò này, mỗi "diễn viên" đội trên đầu một đĩa đèn. Trong lời ca, chỉ có đoạn đầu là có nhắc tới cái đèn, còn toàn bộ nói về công việc sản xuất của nhà nông. Tham gia điệu múa điệu Múa Đèn có tất cả 12 người.

Trang phục rực rỡ: quần trắng, áo đỏ, thắt lưng xanh, đầu chít khăn vành rây bằng nhiễu đỏ, bên trong là khăn trắng nếp to, cao và trên cùng đội một đĩa đèn thắp to ngọn.

Các điệu múa của Múa Đèn được trình bày theo một thứ tự nhất định. Khi chuyển từ điệu múa này sang điệu múa khác thì có câu xướng để chuyển đoạn. Người chi huy đọc câu xướng, khán giả xung quanh đồng thanh trả lời, các nghệ nhân trên sân khấu thay đổi động tác, lời ca. Cách thức này làm cho người ta gợi nhớ đến lối hát mừng, lời giáo đầu trong các vở chèo.

Thứ tự trình bày các điệu múa đó như sau:

1. Thắp đèn;

2. Luống bông, luống đậu;

3. Vãi mạ;

4. Chẻ lạt đan từ;

5. Nhổ mạ;

6. Đi cấy;

7. Kéo sợi;

8. Dệt vải;

9. Vá may;

10. Đi gặt.

Sau những điệu múa ấy, trò Múa đèn được kết thúc bằng một số điệu múa mừng mùa màng thành công. Đó là ba điệu múa: Đánh gà luộc, cúng cơm mới, dâng cản. Những điệu múa này không có lời ca (không rõ vì sao). Những điệu múa cuối cùng này và những điệu múa lúc ban đầu các nghệ nhân phải luyện tập khá công phu (nhất là điệu múa Đánh gà luộc). Bởi vậy, Múa Đèn được biểu diễn vào Rằm tháng Giêng, thì các con trò phải luyện tập từ 20 tháng Một.

Múa Đèn được nông dân rất ưa chuộng. Những buổi biểu diễn ấy thu hút hàng ngàn người từ các nơi về dự.

Hình thức trình diễn của Trò Múa Đèn

Khi biểu diễn, 12 con trò (là các cô gái) đội trên đầu đĩa đèn dầu lạc (hiện nay thường dùng đĩa nến), vừa hát vừa thực hiện các động tác múa rất uyển chuyển mà không làm đèn rơi xuống đất. Xen giữa 10 bài là Xướng và Đế; các bài cuối của trò diễn: Đánh gà luộc, Cúng cơm mới và Dâng oản chỉ múa mà không hát.

Bài: Thắp đèn

Sau chín tiếng trống, con trò hát điệu giáo đèn, 12 con trò đồng thanh hát:

Thấp thoáng bóng ngọn đèn quang,

Còn không ta lấy, giở giang ta đừng

Trong nhà ta từ ngày ràng rạng

Lòng em lại muốn chơi trăng ngoài thềm

Muốn cho trong ấm ngoài êm.

Người chỉ huy xướng: Bà con ơi! Giờ đến tháng Giêng, tháng Hai rồi ta đi huống bông, luống đậu phải chăng?

Lời đế: Phải rồi.

Con trò chuyển điệu múa sang bài tiếp theo, 12 con trò đồng thanh hát bài: Luống bông, luống đậu:

Ta đi luống bông, luống đậu,

Ta đi luống đậu, luống khoai.

Ở trên Phố Láng có hai luống hành

Ai làm cho luống công anh?

Người chỉ huy xướng: Bà con ơi! Giờ đến tháng Ba, tháng Tư rồi ta đi vãi mạ chăng?

Lời đế: Phải rồi. Con trò chuyển điệu múa sang bài tiếp theo, 12 con trò đồng thanh hát bài: Vãi mạ

Tay cầm nắm trấu tung ra

Trấu nát mà ra tro

Thịt nát ra giò,

Đậu nát ra tương.

Người chỉ huy xướng: Bà con ơi! Vãi mạ xong rồi, bây giờ ta đi chẻ lạt đan lừ nên chăng?

Lời đế: Phải rồi. Con trò chuyển điệu múa sang bài tiếp theo 12, con trò đồng thanh hát bài Chẻ lạt đan lừ:

Tay cầm dao mác, nắm nan,

Lên chùa thanh vắng ta đan cái lừ

Bắt cá thả lừ, còn nhớ quên hay quên?.

Người chỉ huy xướng: Bà con ơi! giờ đến tháng Năm, tháng Sáu ta đi nhổ mạ phải chăng?

Lời đế: Phải rồi. Con trò chuyển điệu múa sang bài tiếp theo 12, con trò đồng thanh hát bài Nhổ mạ:

Em thời đi cấy lấy công,

Để anh nhổ mà tiền chung một lòi.

Người chỉ huy xướng: Bà con ơi! Nhổ mạ xong rồi, ta đi cấy phải chăng?

Lời đế: Phải rồi. Con trò chuyển điệu múa sang bài tiếp theo, 12 con trò đồng thanh hát bài Đi cấy:

Lên chùa bẻ một cành sen,

Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng

Ba bốn cô có lịch cùng trăng?

Có bợm cùng trăng?

Thắp đèn ta sẽ chơi trong ngoài thềm

Muốn cho trong ấm êm êm lại ngoài êm...

Người chỉ huy xướng: Bà con ơi! Giờ đến tháng Bảy, tháng Tám rồi phải chăng?

Lời đế: Phải rồi. Con trò chuyển điệu múa sang bài tiếp theo, 12 con trò đồng thanh hát bài Kéo sợi:

Tay cúi cùi cũi,

Ới rằng tay quay

Tay quay, tay kéo.

Từ ngày giăng kéo

Nó ra rù rì.

Yêu nhau lấy quách nhau đi.

Người chỉ huy xướng: Bà con ơi! Kéo sợi xong rồi, ta bắc cửi lên phải chăng?

Lời đế: Phải rồi. Con trò chuyển điệu múa sang bài tiếp theo, 12 con trò đồng thanh hát bài 

Dệt cửi:

Ngồi buồn ta mắc cửi lên,

Uốn tay cho mềm, dệt cửi cho nhanh

Người chỉ huy xướng: Bà con ơi! Dệt rồi, ta và ta may phải chăng?

Lời đế: Phải rồi. Con trò chuyển điệu múa sang bài tiếp theo, 12 con trò đồng thanh hát bài Xe chỉ vá may:

Ngồi buồn xe chỉ, chỉ xe,

Xỏ kim, kim xỏ, ngồi thềm vá may

Tay mang khăn gói, tình lội qua sông

Mồ hôi gió đượm

Gái thương chồng phải theo.

Người chỉ huy xướng: Bà con ơi! Giờ đến tháng Chín, tháng Mười rồi ta đi gặt phải chăng?

Lời đế: Phải rồi. Con trò chuyển điệu múa sang bài tiếp theo, 12 con trò đồng thanh hát bài Đi gặt: (kết thúc tổ khúc với lời ca)

Bao giờ cho lúa bông vàng,

Để anh đi gặt cho nàng mang cơm.

Người chỉ huy xướng: Bà con ơi! Gặt hái xong rồi, ta đánh lá lật nên chăng?

Lời đế: Nên đấy.

Tiếp theo là ba điệu múa không có lời: Đánh gà luộc, cúng cơm mới, dâng oản; các điệu múa này thể hiện cảnh mùa màng tươi tốt, cuộc sống vui vẻ phấn khởi.

Tổ khúc múa đèn kết thúc.

5.2.2.2. Trò Trống Mõ

Ý nghĩa của Trò Trống Mỹ:

Trò Trống Mõ phản ánh cuộc sống của làng quê dưới thời phong kiến: Trò này nhằm tố cáo chế độ phong kiến coi rẻ người lao động, nhất là những tầng lớp khốn cùng của xã hội.

Trống và Mõ xưa kia là hai nhân vật bị xã hội khinh rẻ nhưng kỳ thực lúc nào người ta cũng cần đến. Có trống, có mõ mọi việc trong thôn xóm xưa mới có hiệu lệnh để chấp hành và xã hội mới có trật tự được.

Câu chuyện chỉ sơ lược có thế, nhưng nhân dân đã thông qua đó dựng lên một cảnh sinh hoạt và đặc điểm của địa phương. Thông qua lời đối thoại của nhân và cuộc sống sôi nổi dí dỏm ở nông thôn đã phản ánh khá sinh động. Nhân dân đã đưa ra cả thảy 4 nhân vật: Trống, Mõ, Cu Nhớn và Mẹ Mõ. Mỗi người đều có một hoàn cảnh riêng biệt: Trống và Mõ đều đã nhiều tuổi, song Mõ gian lao vất vả hơn nhiều, lại chưa lập gia đình. Cu Nhớn mồ côi cha, nhiều em. Mẹ đã đi lấy một đời chồng khác. Mẹ Mõ thì dung nhan xấu xí. Tóm lại, họ là những người bị xã hội dành cho thân phận thiệt thòi, cơ cực. Họ rất thương yêu nhau và thông cảm cho nhau nên ở cùng nhau kết bạn, giúp đỡ nhau chiến đấu với xã hội đầy ngang trái và bất công.

Các nhân vật trong trò này hóa trang mỗi người một kiểu. Trống mặc áo hồng rộng thùng thình, tay cầm dùi trống. Mõ vận đồ xanh nhạt, dáng điệu có vẻ lôi thôi lếch thếch. Cu Nhớn hóa trang thành một thanh niên bị sứt môi trên (không rõ vì sao). Mẹ Mõ vận đồ đen mầu đã bạc, mặt mũi xấu xí (trong dịp khai thác trò này, vụ nghệ thuật đã cho Mẹ Mã hóa trang như một phụ nữ bình thường không có vẻ mặt xấu xí ma).

Nhiều làn điệu dân ca được sử dụng trong trò Trống Mõ. Nhạc đệm chủ yếu là trống và mõ.

Các nhân vật vừa múa, vừa hát, dùng đến 16 làn điệu khác nhau. Điều đáng chú là về mặt lời ca thường mượn trong ca dao. Nhạc đệm trống và mõ lúc dồn dập, lúc khoan thai, có đoạn hùng mạnh, có đoạn khôi hài, có đoạn trữ tình, tạo không khí sôi mối từ đầu đến cuối. Các động tác múa kết hợp động tác tay và chân (trước kia vai Cu Nón và Mẹ Mõ đi khập khiễng, gần đây cũng đã bỏ), và thể hiện nội tâm bằng nét mặt.

Hình thức trình diễn của Trò Trống Mõ:

Mõ đế: Dân vang làm sao?

Trống: Dầu vàng ba tiếng i í tung à tung hô, ấy mừng vua tuổi thọ muôn thu. Dù thái ì i Thái Bình, anh em ơi.

Mõ đế: Sao?

Trống: Ta đây có phải xưng danh không nhỉ?

Mõ đế: Có chứ, không xứng danh thì ai biết là ai Trống: Thế thì xin hồi trống để tôi xưng xanh nào.

Dứt trống (trống tiếp), kính trình dân xã:

Mà này này, tôi kính trình dân xã,

Thượng hạ các ngôi nín lặng nghe tôi

Bước vào tối giáo trống

Mà này này (nay tôi là trống)

Trống tôi đánh thùng thụng thùng thụng

Tụng chúc tôn thần

Mà này này, trong tôi đánh kêu vang lừng lẫy i trống tôi, kêu gọi thanh niên mau tiếp bước lên đường.

Tôi đánh ba tiếng trống dẹp loài khấu tặc.

Dứt trống (trong tiếp): Mà này này, trong tôi đánh Trần Bình tìm đến Bành Việt đi tìm nước chư hầu. Trải gần xa khắp hết đâu đâu. Trống tôi đánh thu văn hiển và...(múa lượn)

Dứt trống (trống tiếp): mà này này, văn tôi đi,

Tức thì chiếm bảng khối khoa

Võ tôi đi tất thì phải dẹp tan cường khấu.

Dứt trống (trống tiếp): mà này này, trống tôi đánh kêu vang lừng lẫy, trong tôi là có hiệu trong dân. Trống tôi quyền thu tô túc dong mân.

Có trống có mõ đắc tài đắc lộc anh em ơi (Đế) sao?

(trống tiếp) xin một hồi trống để ta gọi bạn nữa ra đi ăn ve nào.

Dứt trống (trống tiếp): này ới cha mõ!

Mõ ngái ngủ: Ới i ta có ba hạt mít đùm trong mo

Vợ đòi con khóc ta chẳng cho, bỏ vô bếp nướng chẳng may nó nổ cái to, vợ hỏi cái gì thế bố nó? ấy ấy! đấy là ông bếp mắc phái cái bệnh ho đấy chứ.

Trống: Ho he mãi thôi, hãy mau mau ra đi ăn ve với trống : giật mình ngồi dậy: Ai đó?

Trống: Trống đây mau mau ra đi ăn ve với trống

Mõ: Ủa đi ăn ve thế ăn ve ở đâu

Trống: Ăn ve ở Hàn Nội,

Mõ: Hàn Nội nước lội lỏm bỏm có phải mang thang không nhỉ?

Trống: Ủa thế mang thang để làm gì vậy?

Mõ: Mang thang để trèo trái chứ để làm gì.

Trống: Vậy thế thì phải trèo phải chứ

Mõ: Trái phải cũng họ nhà va, này ới thầy mà thầy ơi..ới bác (nưng) mà bác ơi. Ới bạn tính tình tình tính mà ta ơi. Ới trống trống ơi. .

Trống: Ơi!

Mõ: Chứ đầu làng có cây (nưng mà da xanh, chứ gió nam gió bắc gió gãy ba ngành tươi hỡi. Ôi ha ty mà còn tươi...chứ trông như 10 người.

Trống: Mười người làm sao?

Mõ: Chứ trông như mười người ta chẳng yêu được (nưng) mà có chồng, như cày ruộng rậm luống công ới ha ty mà nhọc bò, nhọc hò mà lại lênh đênh,

Trống: Lênh đênh làm sao?

Mõ: (vừa hát đi ra) chứ a lênh đênh a bè ngổ nay a bè dừa bù nâu rồi ra mà chẳng khéo vá cho vừa lòng nhau. Chứ vắng a ông trăng.

Dứt trống: Chứ vắng a ông trắng ta chơi tạm nay a ông sao vắng hoa rồi ra mà thiên lý mà để Nhị đào nhị đào tâm tơn; Phú lại rồi mà tìm quý mà để bạn hiền, ta lại tìm nhau chứ chúng ta a ta đây.

Dứt trống: Trống bắt tay Mõ:

(trống tiếp): Á à. Anh em ta đây thập niên cứu bạn phùng cam võ,

Mõ: A à. Thế thì thiên lý tha nhanh ngộ cái chi,

Trống: Thục nữ động phòng khuê chúc dạ,

Mõ: Thiếu niên kiêm bàng quá danh đề,

(Dứt trống) Mõ: anh em ơi,

(Gõ đế): Sao? Mõ tiếp: Ta ra đây có phải xưng danh không nhỉ?

(Gõ đế): Có chứ! không xứng danh thì ai biết là ai,

Mõ: Thế xin hồi trống để tớ xưng danh nào.

Dứt trống (Mã tiếp): kính trình dân xã mà này này tôi kính trình dân xã thượng hạ các ngôi nín lặng nghe tôi bước vào tối giáo mõ: Mà này này tôi là Mõ nay tôi là Mõ, đùi nội son đỏ, mõ tôi sơn đen tôi đánh đã quen nó kêu cóc cóc.

Mà này này Mõ tôi kêu lắm tiền nhiều thóc, Mõ tôi là cổ hiệu trong dân, Mõ tội quyên thu tô tức dong mân, có trống có mẽ với đắc tiền, đắc thóc.

(Dứt trống Trống và Mã bắt tay nhau).

(Đồng thanh): Anh em ta ra đây xem nhau bằng lăng thời vàng làng thời vàng, in ới chiếc kim chứ đôi ta đổi lấy có lần thời vàng (đổi vị trí).

(Dứt trống): Mảnh gương là có bên tứ mà. Ối ha để thiếp a chàng soi chung là chàng có đi đâu sao bỏ rện có giăng là thời (mường)” giăng mùng giăng mùng ới cô mi ơi có giăng à giăng thời mùng (đổi vị trí).

(Dứt trống): Trống ư à sao, Mõ đang đi mô mà lại đá Trống

Mõ: ấy là không phải chân ta Trống

Mõ: ấy là không phải chân ta?

Trống Mõ: Phải không phải chân ta (đồng thanh)

Mà là chân quân tải đạp sống sông cạn

Nang ối ha. Ha, ha ha ha nang ối hỷ ha hy ha

Ấy tay iêng hùng chỉ núi là núi tan

Ấy tay iêng hùng chỉ núi là núi tan (đổi chỗ).

(Dứt trống): Mõ á à sao Trống đang đi Trống lại ngồi 

Trống: Ấy là ta ngồi có tích

Mõ: Có tích làm sao? có tích là Tọa thảo thanh thanh ngồi đám cỏ xanh, tựa như thạch ngọc. Trông lên trên trời mây xanh vằng vặc. Nang ối ha a ha ha ha nang đi a ha hư ha (ấy ngó xuống đất đất rộng mà thênh thênh) (đổi chỗ).

(Dứt trống): Chiếu loa kinh Đông - Tây - Nam - Bắc, nang ối ha a ha ha ha, nang Ci ty ha hỳ ha đấy đặt địa bàn càn khảm khấn chấn tốn linh).

(Dứt trống) Trống: anh em ơi! Ta ra đây thì giờ đã mãn, vậy ta phải kiếm vài câu đá đố đả nhau chơi có phải.

Mõ: Ừ thì đến này. ừ thì đá này,

Trống: Ủa sao mày lại đá tao?

Mõ: Mày bảo tao đá tao đừng đá,

Trống: Đấy là câu nói chứ ai lại đá nhau thế,

Mõ: Sao mày không nói rõ cho tao biết thế bây giờ đố cái gì đây?

Trống: Ai có chữ thì đố chữ, ai không có chữ thì đố nôm, 

Mõ: Thế không có chữ không có nôm thì đố cái gì? À à đố tấn tọng có được không?

Trống: ả à tấn tọng là tám toang phải không? được được! 

Mõ: Thế thì mày ra trước mày là lính đàn anh, mày thử đố trước xem nào,

Trống: Được ta đố trước phải không, (xách tại Mõ kéo sang một bên) này nghe Ngẩng cổ cò,

Mõ: (nhắc lại là ngẩng cổ cò),

Trống: Phải ngẩng cổ cò cho một gậy

Mõ: Ngẩng cổ cò cho một gậy (ngả mặt cười)

A ha ta biết tỏng ra rồi thế mà cũng đố. Đấy là mày cằm cậy gậy đánh vào cổ mỏ chứ gì?

Trống: Ấy không phải đâu đó là ta đố chữ đấy,

Mõ: Là mày đố chữ?

Trống: Phải ta đố chữ đấy mày thử giảng đi xem,

Mõ: Điều đó ta còn lạ gì nó là con cò chứ gì?

Trống: Không phải. Nó là chữ nhưng không phải là chữ con cò,

Mõ: Thì nó là...nó là...nó là chữ Thậu,

Trống: ả à Thậu là chịu phải không? Mày nghe đây đó là chữ Tử

Mõ: Hả tử là chết hay sao?

Trống: Không phải tử là chết mà tử là con đấy,

Mõ: Hà tử sao lại gọi là con được!

Trống: Mày nghe đây, nếu tử là chết thì ngẩng cổ cò không có cho một gậy; còn ngẩng cổ cò cho một gậy chính là chữ tử là con.

Trống Mõ: Đa tử đa tôn là đa phú quý nay ối ha,

A ha ha nang ối hỳ ha hỳ ha đấy đắc tài, đắc lộc là đặc trường sinh).

Trống: Bây giờ đến mày đố đi xem nào

Mõ: (cùng nhau xách tại Trống kéo sang một bên). Mày hãy nghe đây: Độp.

Trống: (Nhắc lại) Độp.

Mõ: Soạt,

Trống: Soạt.

Mõ: Ngủng ngoằng ngùng ngoằng; A lách tách tách. Tách. Đùng.

Trống: Mày bắn tao hay sao?

Mõ: Không phải đâu tao cũng đố chữ đấy

Trống: Hả mày cũng đố chữ?

Mõ: Chứ sao, mày tưởng mình mày biết đố chữ thôi sao?

Trống: Thế thì nó là... nó là chữ con cò chứ gì?

Mõ: Không phải, nó là chữ nhưng không phải chữ con cò,

Trống: Thì nó là...nó là...nó là chữ Chịu.

Mõ: Hả chịu thua phải không.

Thế thì mày nghĩ đây nó là chữ Vi.

Trống hỏi: sao nó lại là chữ vi được?

Mõ: Mày nghe đây, chữ Vi nó có hai cái phảy; Một phảy ngắn ta gọi độp, còn phay ta gọi soạt. Ngủng ngẳng ngùng ngoằng là thân giữa. A lách tách tách tách đùng là ba chấm nhỏ một chấm to nó với thành ra là chữ Vi nhưng chưa hết người ta mới vòng vai một cái nó với thành ra chữ vậy là vầy.

(Đồng thanh): vòng vai chữ vậy là vầy; chữ dục à là muốn đi ha chữ tùy là theo.

Mõ: Bây giờ lại đến mày đố đi xem nào,

Trống: Mày nghe đây, ngày thời tăng hẩng tờ hơ

Mõ: Hả ngày thời tăng hẩng tờ hơ

Trống: Phải! Tối về chập choạng cầm sơ nít vào

Mõ: Cầm sơ ních đào...a ha ha ha hay hay hay nay thiệt là hay hay ở chỗ cầm sơ ních vào

Trống: Ấy ta đố thô nhưng lại giảng thanh đấy

               Không như Mõ nghĩ đâu

Mõ: Mày đố thô mà giảng thanh?

      Nhưng dù sao nó vẫn hay hay hay ở chỗ cầm sơ ních vào.

Trống: Thế thì mày hãy giảng đi xem nào,

Mõ: Hay nó là chữ vi chữ gì,

Trống: Không phải đâu, bây giờ ta lại đố nôm đây

Mõ: Hả mày lại đố nôm?

Trống: Phải mày thử giảng đi xem nào

Mõ: Hay nó là…nó là...nó là chữ Thậu

Trống: ả à Thậu Thậu là chịu phải không?

         Thế mày nghe đây nó là cái then của

Mõ: Hả sao gọi nó là then cửa được?

Trống: Mày nghe cho rõ đây, ngày thời tăng hẩng tờ hơ

           Là ban ngày ta mở cửa để tơ hơ ra đấy

           Tối về chập choạng cầm sơ ních vào là ban đêm

           Ta đóng cửa đi ngủ ta mới thấu cái then vào lỗ

           Đó là cầm sơ ních vào.

(Đồng thanh): khăng khăng cửa đóng then cài?

              Cửa trong à mắc khóa, ối ha cửa ngoài mắc then.

(dứt trống): Đôi ta còn lại chưa quen,

Tuy rằng cửa đóng ối ha mà then không cài.

Trống: Bây giờ đến mày đố đi,

Mõ: Này hãy nghe đây bốn chân bằng ha

Mõ: Phải hai mắt hai mũi tựa hình con voi

Trống: Hai mắt hai mũi tựa hình con voi? hay là con voi?

Mõ: Phải chính là con voi.

(Đồng thanh): Voi lên thắng bành, ngựa lên yên khấu,

Nang ối ha a ha ha nang ối hỳ ha hỳ ha,

Ấy các quan triều áo mẫu là mẫu cân đai.

(dứt trống): Súng vác vai hỏa mai dồi nạp mang ối ha a ha ha ha nang ối hỳ ha y ha. (ấy gươm tuốt trần giáo cấp là nách mộc mang)

Trống: Anh em ơi, ta ra đây thì giờ đã mãn; Vậy xin hồi trống để ta gọi một bạn nửa ra đi buôn nào

(dứt trống) Trống tiếp: Gọi ới mẹ Mõ.

Mẹ Mõ: Ai kêu đấy...(Trống nói từ ngoài): Trống đây mau ra đi luôn với Trống Ới ai đi đó đợi tôi (nưng) mà tôi cùng mà tôi còn đường sắm sửa áo sòng bi ha ty mà mũ niên. Này chị em ơi bác mẹ sinh ra phận gái đàn bà, mà hình dáng nhan sắc nết na môi chẳng kịp người. (chồng rồi) là đoán các chị bên sông đã có, có chồng à rồi…phận em là có bên xấu sổ i, Ối ha sinh ra em lỡ a thì, là bác a mẹ ơi kia còn ngắn đoạn mà tôi chỉ…15 - có bên 18 i. Ới ha chẳng cho tôi đi lấy a chồng. Tôi trách ông trời sao ăn ở mà không công, duyên em có bên là lồi i ới ha ông tơ hồng ông khéo trêu người là có đêm. Đêm đêm tôi vỗ đất có kêu a trời, kêu sang là có lên bền bắc y, ới ha kêu trời kia à đông. Là có đêm đêm, đêm tôi gạt nước mắt tôi những có khóc và thầm, mà tôi Hai ông tơ bà nguyệt i ối ha ông vẫn trêu người ơi ông trời ơi.

Trống Mõ đùa: Này hỡi cái cô kia hãy còn đứng đó có chưa à chồng, cho anh là bên ghé chút y ới ha loan phòng nên chăng là có nên chăng, anh mới hỏi thật cái cô mình rằng có ai về cho ta gửi và cái buồng thời cau.

Buồng trước, là có bên thời điếc y ới ha buồng sau thì già anh xem cái con này mà còn kém chúng anh còn xa, để anh còn có bên đi chợ y ới ha mua gà xem chân. a m yêu anh thì nhích lại có cho mà gần, để ta còn có bên kết ngãi y ối hạ châu trầu Cùng nhau là có nên chăng?

Mẹ Mõ: Này chị em ơi! đất bờ sông lại lở xuống sông mà đàn bà con gái chào ông có thiệt gì, mà có cau chẳng ngon cũng lọ chè tàu mà tuy tốt nước cũng màu chè xanh; chị em ơi trúc xinh trúc mọc sân đình; mà em xinh em đứng một mình cũng Kinh Lại có câu thế gian hiếm có người này, mà răng đen hạt mướp, tóc mây đuôi gà chị em (ý).

Gõ đế cha: Mẹ Mõ đẹp quá, xin hồi trống để cục Mõ, mở mày mở mặt xem nào,

Mẹ Mõ: Này anh chương ới anh chương còn chê tôi nỗi gì?

Cha Mõ: Ta chê mày xấu mày đen.

Mẹ Mõ: Anh ơi đừng chê tôi xấu, tôi đen; tôi như nước đục ối a đánh phèn lại Anh ơi đừng phụ hát đàn (mâm son à hát xứ ối a cũng tan có ngày). Này anh chường ơi anh chường chẳng nhớ khi chường bảng chường beo mà năm tiền chén thuốc lại đèo quả chanh. Bây giờ chường đã chường lành, chường muốn vợ nọ chường tình phụ tôi, anh ơi đất xấu nặn chẳng nên nồi, để anh lấy vợ ối ha tôi đi lấy chồng.

Trống Mõ: Này ới ai ra về, cho ta gửi vài cái buồng thời cau. Buồng trước là có lên kính mẹ y, ới ha buồng sau kính thầy, còn buồng thứ ba chúng anh đi dạm cái cô mình đây.

Mẹ Mõ: Ngoảnh lại. Hả thật vậy sao?

Trống Mõ: Thật vậy mà em hãy tin anh đi

Mẹ Mõ: Ừ quả có thể chứ

Trống Mõ: Vậy em hãy ở lại để gọi một bạn nữa ra đi luôn

(dứt trống): Trống này, ới mẹ cu Nhớn

Mẹ cu nhớn: Ai kêu cái gì đấy

Trống: Trống đây ra đi buôn

Mẹ cu nhớn: Ấy mà tôi còn đương giở

Trống: Đương giở việc gì

Mẹ cu nhớn: Tôi còn đương giở bắt mớ cá bán mua con trâu mộng; ấy ấy mà đương giở.

Trống: Đương giở việc gì nữa?

Mẹ cu nhớn: Tôi còn đương giở cõng gà ra lũy cho cáo xơi. Ấy ấy mà tôi còn đương giờ.

Trống: Giở việc gì giở mãi thế?

Mẹ cu nhớn: Tôi còn đương giở đuốc đốt lọ để bôi vào mồm tôi lun đun tôi ra - Chậc phục nào cái thằng cu nhớn, phậc phục nào cái con đi bé, cu ty cu tỳ, (cu ngay về cu ở cùng ông, cu ở cùng bà, để mẹ ra rồi mà xuất giá mà để kiếm vài kiếm vài em bớ cu cu nhớn à ơi.

Bớ3 cu nhớn ơi, bố con thác đi mẹ hãy còn thèm, mẹ xem là cái trong quẻ bói hãy còn đàn em trong lòng bớ cu nhớn à ơi. Bớ cu nhớn ơi mẹ có thác đi con có tế ba bò, cũng chẳng bằng là cái khi mẹ sống con cho mẹ là đi lấy a chồng, bớ cu nhớn à ơi. Này chị em ơi tôi nó rõ rành cái tuyết tháng Giêng, tháng Hai là tuyết ăn chơi, sang img Ba tháng Bốn là tháng khốn tháng nạn. Tôi mới đi tạm chị tạm em được một đấu thóc.

Tôi mang về nhà tôi xay lăn xay lóc, xay trằn xay trọc tôi làm bánh lọc tôi nhân trong, một nửa tôi nuôi chồng một nửa tôi nuôi con. Chồng con tôi mới ănkhông hết, tôi thết đã khắp còn lại tôi mới đem đi chợ, đi chợ, đi chợ. Tôi lại bán được 40 ối ha ty mà chữ tiền...chị em ơi, tôi mới dùng 40 chữ tiền này. Tôi sắm đủ 10 thứ tài sản trong gia đình đó nghe.

(Gõ đế): Thế Mẹ cu nhớn sắm những gì nào,

Mẹ cu nhớn: Sắm á đủ gia tài, (tất cả đồng thanh):

Thứ nhất tôi mua gỗ làm nhà,

Nhà ngang rồi ra nhà dọc mà để ba tòa ba tòa gỗ lim song hãy còn tiền

Tôi mua chiếu mà ngồi, mua giường mua sặp mà để lấy nơi lấy nơi mà nằm

Song hãy còn tiền

Song hãy còn còn tiền thứ ba

Tôi sắm cổ nồi đồng nồi năm rồi ra mà nồi bảy

Mà để xanh mười, xanh bảy, xanh ba

Song hãy còn tiền

Song hãy còn tiền thứ tư

Tôi mua lợn mua à gà mua ấm rồi ra mà mua chén mà để mua trà mua trà ô long.

Song hãy còn tiền

Song hãy còn tiền thứ năm

Tôi mua sắm ruộng đồng mua trâu bò rồi ra mà ruộng tốt mà để gia đình.

Gia đình tôi sinh nhai.

Song hãy còn tiền.

Song hãy còn tiền thứ sáu

Tôi mua sắm cày bừa, mua trâu rồi ra mà cày kéo mà để thâm canh

Thâm canh ruộng đồng

Song hãy còn tiền

Song hãy còn tiền thứ bảy

Tôi mua sắm chiếc mâm à đồng

Phòng khi rồi ra mà có khách mà để vợ chồng tôi xơi cơm.

Song hãy còn tiền

Song hãy còn tiền thứ tám

Tôi mua sắm chiếc ống vôi phòng khi rồi ra mà có khách mà để chồng hồng tôi xơi giầu.

Song hãy còn tiền.

Mẹ cu nhớn: Song hãy còn tiền thứ chín,

Tôi mua nhiều làm khăn, ba vuông rồi ra mà bảy súc mà để may chăn may chăn hàng.

Song hãy còn tiền

Song hãy còn tiền thứ mười

Tôi đúc chiếc tàu đồng chở ra rồi ra mà ngoài biển mà để vợ chồng bạn bè tôi chơi. Song đã đủ rồi.

Mẹ Mõ: Này chị em ơi, em là con gái của tổng Thạch Khê ở huyện Thạch Khê mà ở làng Thiều Xá có nghề ối a ty mà đi buôn chứ đông ra bắc này.

Chứ đông ra bắc nay cho cái nay a ngải nguồn mùa nào rồi mà ra mà tuyết ấy ấy mà đi luôn đi luôn cùng chồng chứ tháng a tám nay

Chứ tháng a Tám nay cắp gánh em đi buôn hồng tháng chín rồi ra mà.

Buôn quýt mà để tháng Mười tháng Mười em buôn cau chứ a tháng Một nay;

Chứ a tháng Một nay chợ phủ em đi buôn dầu, tháng Chạp rồi ra mà buôn bấc mà để buôn dầu buôn dầu em buôn hướng chứ tháng a Giêng nay

Chứ tháng a Giêng nay xuôi tỉnh em đi cân đường. Tháng Hai rồi rầm tiện mía mà để tháng Ba tháng Ba em nạo dừa chứ a tháng Tư nay

Chứ tháng a Tư nay cắp gánh em đi buôn dưa, tháng Năm mà ra mà buôn đậu mà để tháng Sáu lưa sau lưa vải con chứ tháng a Bảy nay

Chứ tháng a Bảy nay trẩy mà em đi theo phường đến đây rồi ra mà tạm nghỉ mà cũng vừa càng vừa sát năm cũng vừa hết năm.

Kết thúc Trò Trống Mỹ

5.2.2.3. Trò Ngô

Ý nghĩa của Trò Ngô:

Trò Ngô thực ra là một cuộc đối đáp giữa một cô gái bản địa và ba chàng trai lạ mặt. Cô gái có tên gọi là cô Đẩy, còn ba chàng trai lạ mặt sau thành ba ông sứ nước Một cụ già được gọi là Ngô già bán kẹo. Cô gái đóng bộ trang phục theo kiểu quan họ Bắc Ninh đầu chít khăn mỏ quạ, ba chàng chai đóng áo thụng màu xanh lam Tiền vàng hai hàng cúc trắng. Cửa tay viền trắng, quần vàng viền xanh, đầu đội mũ đen cao thành, chân đi giày đen Cụ già đóng áo thụng màu xanh lá cây, viền vàng, hai hàng cúc vàng, cửa tay viền vàng, quần đỏ viền xanh, đầu đội nón nan chóp, vai đeo nhãng vải đựng kẹo, tay mất chế bán kẹo.

Trò Ngô Đông Anh khác với trò Ngô ở xã Đông Thanh và Đông Thịnh, Trò Ngô Đông Anh (còn gọi là Trò Ngô Viên Khê) là trò diễn dài nhất. Trò Ngô ở đây Chim gắn với hệ thống trò nào, không có tích truyện và như là một "hoạt cảnh", được chia làm 3 chặng:

Chặng một: có 3 nhân vật gồm thầy thuốc, thầy địa lý, anh đánh bạc. Ba người chiều diễn theo tài nghề nghiệp của mình, tập trung vào những động tác gây cười.

Chặng hai: Ngô già đi bán kẹo, xuất hiện thêm con đĩ. Con đĩ là động tác “bẻ ngô”. Mọi người xúm lại trêu ghẹo Ngô già. Bị chọc ghẹo, Ngô già, giả chết. Con đĩ ingi thầy địa lý, thầy thuốc đến chữa bệnh cho Ngô già. Ngô già khỏi bệnh sống lại.

Chặng ba: Thêm các nhân vật như ông Bụt, bà Vãi, ông Sư, ông Tô Tượng, tuông. Các nhân vật này sau khi làm động tác giới thiệu “nghề nghiệp” của mình Thí điệu chèo sâu, chèo cạn, chèo đua. Liên quan đến trò Ngô ở Đông Anh còn 7 Ngõ ở xã Đông Thanh và Đông Thịnh (xem phần phụ lục)

Hình thức trình diễn của Trò Ngô:

Cô gái: Ô kìa ba chàng trai đẹp trai đi đâu vậy,

    Lại đây nào (Ba chàng trai nhảy lên).

Ba chàng trai: Ô kìa, đẹp quá xin chào người đẹp,

Cô gái: Ớ ờ, không dám xin chào ba chàng trai đẹp trai thế, ba chàng trai đẹp trai đến từ đâu vậy?

Ba chàng trai: Ô ố ta là người của lước Ngô sang lớ.!

Cô gái: Ô ba chàng trai là người của nước Ngô sang phải không?

Ba chàng trai: Ô ô ta là người giúp việc cho đại sứ Tặc mệnh lớ.

Cụ già (Xem vào ngõ nghiêng): ố ồ! đẹp quá! đẹp quá

Cô gái quắc mắt đập cho một quạt

Cụ già: Nhảy sang một bên nhìn chằm chặp rồi bỏ đi

Cô gái: ố ở ba chàng trai nói là giúp việc cho đại sứ

Ba chàng trai: ố ồ pải pài pải lố pải lớ!

Cô gái: Thế bây giờ ta gọi như thế nào đây?

Ba chàng trai: ớ ờ cứ gọi là ba ông sứ là được mà

Cô gái: Thế ba ông sứ giúp việc cho đại sứ có còn làm việc gì nữa chăng?

Ba ông sứ: ớ ờ có lỡ xó lớ ta có đem một số hàng mà bên ta chưa có tể bán lớ!

Cô gái: Ả à ba ông xứ nói là mang hàng sang để bán!

Ba ông sứ: Ớ ở pải pải lớ pải lớ!

Cô gái: Ả à thế là ba ông sứ là lái buôn phải không?

Ba ông sứ: Ở ờ cứ cho là như thế cũng được mà.

Cô gái: Thế ba ông sứ có những hàng gì?

Ba ông sứ: Ớ ở nhiều lắm đó nhiều lắm dớ nào nà póc nhiễu chang tô lớ pà tơ là đông tông lớ.

Cô gái: Ả à ba ông xứ nói là có vóc nhiễu tang tơ

Ba ông sứ: Ở ồ công pải công pải lớ (nhảy xuống)

Cô gái: 3 y khoan đã ba ông xứ lại đây nào

Cụ già: Xem nào ố ồ đẹp quá chào người đẹp!

Cô gái quắc mắt lườm đạp cho một quạt nữa

Cụ già: Nhảy sang một bên lắc đầu bỏ đi

Ba ông sứ: Nhảy lên theo nhịp trống

Cô gái: Xin lỗi vừa rồi ta nghe chưa rõ.

Ba ông sứ thử nói lại xem nào

Ba ông sứ: Ta lói nà có vóc nhiều giang tơ giang tô lớ

Cô gái: Á à thế là vóc nhiều giang tổ chứ không phải là tang tơ. Và có cả tơ lụa Đồng

Ba ông sứ: 0 pải pải pà có cả cấm Tây Xuyên nữa

Cô gái: Ả à ha ông sứ nói có cả gấm Tây Xuyên

Ba ông sứ: Ở ồ pải pải pà còn nhiều thứ nữa

Cô gái: Thế ba ông sứ mang nhiều hàng như thế. Ba ông đi bằng phương tiện gì?

Ba ông sứ: Cô ta đi bằng thuyền bằng thuyền lớ

Cô gái: Ả à ba ông nói là đi bằng thuyền? Thế thuyền của ba ông đóng ở đâu vậy?

Ba ông sứ: Ở ồ thuyền của ta đóng ở ngã ba Toàng Tựng Toòng Tựng lớ

Cô gái: Ả à ba ông nói là thuyền của ba ông đóng ở ngã ba Tồn Pẹn phải không ạ?

Ba ông sứ: Ở ồ công pải công pải công pải lớ (nhảy xuống)

Cô gái: Khoan đã khoan đã ba ông hãy lên đây như thế nào

Ba ông sứ (Theo nhịp trống nhảy lên)

Cô gái: Xin lỗi, vừa rồi ta nghe chưa rõ. Ba ống sứ hãy nói lại xem nào?

Ba ông sứ: Ta lói thuyền của ta đóng ở ngã ba Toòng Toòng Tiệng lớ Toòng Tiệng lớ.

Ba ông sứ: Ớ ơ có lỡ xó lớ ta có đem một hàng mà bên ta chưa có tể bán lơ!

Cô gái: Ả à ba ông sứ nói mà mang hàng sang để bán

Ba ông sứ: Ớ ờ pải pải lớ pải lớ!

Cô gái: Ả à thế là ba ông sứ là lái buôn phải không?

Ba ông sứ: Ớ ờ cứ cho là như thễ cũng được mà.

Cô gái: Thế ba ông sứ sứ có những hàng gì?

Ba ông sứ: Ớ ờ nhiều lắm dớ nhiều lắm dớ nào nà póc nhiễu chang tô lớ pà tơ lụa hà đông tông lớ.

Cô gái: Ả à ba ông sứ nói có vóc nhiễu tang tơ

Ba ông sứ: Ố ồ công pải công pải lớ (nhảy xuống)

Cô gái: Ớ ờ khoan đã ba ông sứ lại đây nào

Ba ông sứ: Xem nào ố ồ đẹp quá chào người đẹp!

Cô gái quắc mắt lườm đạp cho một đạp nữa

Cụ già: Nhảy sang một bên lắc đầu bỏ đi

Ba ông sứ: Nhảy lên theo nhịp trống

Cô gái: Xin lỗi vừa rồi ta nghe chưa rõ. Ba ông sứ thử nói lại xem nào

Ba ông sứ: Ta lói nà có vóc nhiễu giang tơ giang tô lớ

Cô gái: Á à thế là vóc nhiễu giang tơ chứ không phải là tang tơ. Và có cả tơ lụa Hà Đông

Ba ông sứ: Ố ồ pảo pải pà có cả tấm Tây Xuyên nữa

Cô gái: Ả à ha ông sứ nói có cả gấm Tây Xuyên

Ba ông sứ: Ố ồ pải pải pà còn nhiều thứ nữa

Cô gái: Thế ba ông sứ mang nhiều hàng như thế. Ba ông đi bằng phương tiện gì?

Ba ông sứ: Ố ồ ta đi bằng thuyền bằng thuyền lớ

Cô gái: Ả à ba ông nói là đi bằng thuyền? Thế thuyền của ba ông đóng ở đâu vậy?

Ba ông sứ: Ố ồ thuyền của ta đóng ở ngã ba Toàng Tụng Toòng Tựng lớ

Cô gái: Ả à ba ông nói là thuyền của ba ông đóng ở ngã ba Tồn Pẹn phải không ạ?

Ba ông sứ: Ố ồ công pải công pải công pải lớ (nhảy xuống)

Cô gái: Khoan đã khoan đã ba ông đã lên đây như thế nào

Ba ông sứ (Theo nhịp trống nhảy lên)

Cô gái: Xin lỗi, vừa rồi ta nghe chưa rõ. Ba ông sứ hãy nói lại xem nào?

Ba ông sứ: Ta lói thuyền của ta đóng ở ngã ba Toòng Toòng lớ Toòng Toòng Tiệng lớ.

Cô gái: Xin lỗi nhé ngã ba Toòng Tiệng chứ không phải ngã ba Tồn Pẹn phải không ạ.

Ba ông sứ: Ở ờ pải pải pải lớ là người đẹp thông minh lớ!

Cô gái: Bây giờ ta muốn hỏi ba ông một việc nữa được không?

Ba ông sứ: Được được người đẹp hỏi gì cứ hỏi, Ta sẵn sàng mà.

Cụ già: Ở đẹp quá! đẹp quá đi thôi cu xiêng cu xà lờ đưa ống cu xiêng ra trước mặt cô gái. Đó đó đó đó có đẹp không?

Cô gái: Quắc mắt nhìn xong lại đặt ống bỏ một quạt

Cụ già nhảy sang một bên lắc đầu: đẹp quá! đẹp quá đi thôi!

Cô gái: Thể hiện nước Ngô ngoài giống lúa nước ra có còn giống gì khác nữa

Ba ông sứ: Ở ồ có có lớ, có lớ nên lước Ngô chúng tôi ngoài giống lúa lước ra tim có giống lúa nắp để trồng trên đồi nữa đấy!

Cô gái: À à ba ông nói là bên nước Ngô ngoài giống lúa nước còn có giống lúa để trồng trên đồi?

Ba ông sứ: Ớ ở công pải công pải công pải lớ (nhảy xuống)

Cô gái: Khoan đã khoan đã ba ông hãy lên đây như nào

Ba ống sứ lại theo nhịp trống nhảy lên

Cô gái: Xin lỗi vừa rồi ta nghe chưa rõ. Vậy ba ông hãy nói lại xem nào?

Ba ông sứ: Ở ồ, vừa rồi ta lói là có lúa páp của páp chứ không phải lúa pắp

Cô gái: Ả à thế là ba ông nói lúa bắp, chứ không phải lúa Pắp

Ba ông sứ: Ở ồ pải pải lớ! pải lớ!

Cô gái: Thế ba ông xứ có biết hát không

Ba ống sứ: Ố ồ có lớ! có lớ!

Cô gái: Thế ba ông sứ thử hát xem nào

Ba ông sứ: Con ký à tồn pôn, con ký à tồn pôn. Nằm trên phải biết kiết nằm trên à pải biết kiết. Cặp cơn a pưa trào cặp con Pưa trào.

Cô gái: Ả à ba ông sứ hát là:

   Con cá lớn trơn nằm trên bãi cát gặp cơn mưa rào phải không?

Ba ông sứ: Ố ồ pải lớ! pải lớ! Người đẹp thật thông minh.

Cô gái: Vậy ba ông sứ hãy nghe đây: Ta yêu mình mình nọ í à yêu ta

Mình nọ í à yêu ta

Núi kia à đổ a biển a mặn à mà a nơi có nơi

Núi kia à đổ a biển a mặn a mà a nơi có nơi.

Ba ông sứ: Ố ồ hay lắm! hay lắm! người đẹp hát hay lắm!

Cô gái: Thế ba ông có biết hát ghẹo không?

Ba ông sứ: Ô ồ có lớ! có lớ! hát tốt, hát tốt mà

Cô gái: Thế ba ông thử hát đi xem nào

Ba ông sứ: Hát, tểu ả tây ai tớ ở ai tây ai tớ ở ai tây ai còn á tá ngục ai cây à ngô tồng

Cô gái: Ỏa à ba ông sứ hát là: Đến à á đây ai tớ ở ai thầy, ai hòn đá ngọc ai cây có đồng phải không?

Ba ông sứ: Ớ ở pải pải hay lắm hay lắm người đẹp thông minh lắm

Cô gái: Vậy ba ông xứ hãy nghe đây:

Đến à ả đây em tớ í à anh thấy em tớ í à anh thấy em hòn à đá ngọc, anh cây í à đồng. Em hòn đá a ngọc anh cây í à ngô đồng.

Ba ông sứ: Ố ồ hay lắm, hay lắm người đẹp hát hay lắm, hay tuyệt là hay.

Cô gái: Thế ba ông sứ lại hát tiếp đi!

Ba ông sứ: Tến à á tây ai pự ai chùng, Ai pự ả ai chùng, ai ca dưới nước ai mây trên mây ai ca dưới nước ai chúng mây trên mây

Cô gái: Á à ba ông sứ hát đến đây ai vợ ai chồng ai cá dưới nước ai rồng trên mây phải không ạ?

Ba ông sứ: Ở ồ pải lớ! pải lớ! người đẹp thật thông minh

Cô gái: Vậy ba ông sứ hãy nghe đây

    Đến à á đây em vợ í à anh chồng. Em vợ í à anh chồng

     Xem cá à dưới nước anh à rồng mây trên mây.

     Em ca à dưới nước anh à rồng mây trên mây.

Kết thúc câu cuối cùng dàn thành hàng ngang chào khán giả)

(Cụ già đi bán kẹo):

Dao cái pe ngông nguồng mà cái pi đồng dôồng Cái pi nguồng nguọoc, có tiếng đừ để làm gì Mang ra mua kẹo pắc kỳ mà eng nẹn

Kẹo pắc kỳ nè eng pộc lại cuống eng hai nè

Ai pua một tùng thì ta pán một tùng nè

Ai pua hai tùng thì ta pán bằng hai một tùng nè Cu xiền cu xò nè, đó đó đó đó.

5.2.2.4. Trò Xiêm Thành (còn gọi là Chiêm Thành)

Ý nghĩa của Trò Xiêm Thành:

Trò Xiêm Thành phản ánh về cuộc sống nhân văn của người nông dân dưới lũy sang, đó là mơ ước một đời sống vui tươi, lành mạnh hạnh phúc trong mỗi gia đi lên án thói hư tật xấu của một bộ phận người gian dối, ba hoa khoác lác thông qua lớp diễn trò giữa thầy bói và người đi bói (ở tiết 1). Đạo làm thầy và và đạo làm mỡ tiết 2) và kết thúc là diễn trò phòng bệnh và chữa bệnh của thầy Bèo và học trò thầy Bèo (ở tiết 4)

Hình thức trình diễn: Kịch bản trò Xiêm Thành (Nàng nước) còn được gọi là (trò thụng thủy) gồm:

Hai vai - thầy bói và người đi bói;

Hai vai - thầy bèo và trò thầy bèo;

Bốn vai - đóng học sinh đi học;

Bốn vai - lính Xiêm Thành nhảy điệu Xiêm Thành;

Một vai cầm gõ và đáp câu hỏi của thầy bói.

Diễn trò của trò này gồm có 4 tiết:

Tiết 1: Vào vai đề thầy bói ra hát sẩm

Thầy bói:

Hung thì tàn hung thì tàn,

Gớm ghê thay cho cái thằng giặc cướp

Nó mới hung thì tàn Nó đem là đem cái bom đạn ó ơ ờ ơ

Nó gây làm là làm cái chiến tranh

Nó đi đến đâu thì nó lại đốt phá a tan tành

Nó lại đốt phá tan tành nhà thời rồi ra

Nó chẳng để í ơ ờ ơ chùa nghe nó cũng chẳng tha...

Nó đi đến đâu nó lại hiếp dâm con gái

Là ai ơi đàn bà. Nó lại hiếp dâm con gái

Đàn bà chẳng từ rồi ra là lẻo ớ ơ ờ ơ

Tuổi già sáu bảy tám mươi

Chứ trẻ con thời nó hiếp chết tươi i

Trẻ con thời nó hiếp chết tươi thật là

Cái loài thú dữ ớ ơ ờ ơ ăn thịt người mà

Không tanh chứ nó đi đến đâu thì nó lại

Đốt phá a tan tành.

(Nói): Bà con ơi (sao) gần đến chợ chưa nhỉ?

(Gõ đáp): Gần đến rồi đấy nhưng trước mặt có nổ đấy

Thầy: Hả có nổ hả thể xúc xúc, xúc cho thấy một mũ

Gõ đế: Ấy ấy...nổ lội chứ không phải nổ rang

Thầy: Hả! nổ lội, nổ lội thì dắt thầy sang. Mà hãy nổ rang thì xúc cho thấy một mũ

(Gõ đáp): Đúng là nổ lội đấy!

Thầy: Ha! thế gần đến chưa?

Gõ đáp: Đến rồi đấy, thầy đưa cây gạo ra trước một mét nhảy mạnh một cái thì qua nổ.

Thầy: Thế gần đến chỗ chưa nhỉ?

(Gõ đáp): Đến chỗ thầy ngồi rồi đấy.

Thầy: (ngồi xuống xong), chao ôi ai mà đánh rơi bánh rán sớm thế này (đưa lên miệng). Trời ơi! Trâu bò nhà nào mà đi qua đây sớm thế (sau khi chùi tay sửa Tung, ngửa mặt lên trời (ngâm) Tử vi...xem bói cho người...mà số thầy thì thầy để...cho ruồi nó bầu.

Cô gái: Dạ dạ, thưa thầy, thầy xem cho con một quẻ ạ

Thầy: Á à dạ...dạ thưa ông?

Cô gái: Dạ...con không phải là ông ạ.

Thầy: Á à thế thì....dạ thưa bà.

Cô gái: Dạ...thua thấy con cũng không phải là bà ạ

Thầy: Ả à thế thì thưa chị.

Cô gái: Dạ...dạ thưa thấy con còn ít tuổi cũng không phải là chị ạ.

Thầy:  Á à ta hiểu rôi, thưa người đẹp.

Cô gái: Dạ...thưa thấy sao thầy biết con đẹp ạ.

Thầy: Ì điều đó ta còn lạ gì mà không biết.

Người đẹp thì á tiếng nói như chuông kêu

Mà tiếng cười thì khanh khách, khanh khách

Ta còn lạ gì, còn người xấu á tiếng nói

Thì như bò rống mà tiếng cười thì đành đạch, đành đạch.

Ai còn là gì mà không biết

Thế bây giờ cô coi cái gì nào?

Cô gái: Dạ...thưa thầy coi cái gì là sao ạ.

Thầy: Ả à ví như cô coi về âm phần hay dương trạch vậy.

Cô gái: Dạ. Thưa thầy con coi cả hai ạ

Thầy: Thế hử, bây giờ ta coi về dương trạch trước. Vậy cô cho biết tuổi của cô,

Cô gái: Dạ...thưa thấy con tuổi Tý ạ.

Thầy: Cô tuổi Tý thế còn chồng cô tuổi gì?

Cô gái: Dạ...thưa thấy chồng con tuổi Mùi ạ.

Thầy: Ả à tuổi Tý chồng tuổi Mùi thế là Tý di Mùi, Mùi lại dùi Tý, Tý di Mùi, tai lai dui tý.

Nếu ta đoán không nhầm số cô là số đào hoa, mà nuôi được con chó nó lại cắn lăng mồm có đúng không nào?

Cô gái: Dạ thưa thầy đúng ạ.

Thầy: Hai là số cô có vợ có chồng, sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai. Đúng không nào?

Cô gái: Dạ...thưa thầy đúng ạ.

Thầy: Ba là nhà cô có một cối xay bốn chân xuống đất

Cái ngõng nó chổng ngay lên trên trời đúng không nào?

Cô gái: Dạ thưa thấy cũng đúng ạ.

Thầy: Bây giờ ta xem âm phần. Nếu ta doán không nhầm thì ông thân sinh ra của cô thác về ban ngày đúng không ạ?

Cô gái: Dạ thưa thấy ông thân sinh ra chồng con thác về ban đêm ạ.

Thầy: Thác ban ngày

Cô gái: Dạ...thưa thầy thác về ban đêm ạ.

Thầy: Thác ngày mới đúng.

Cô gái: Dạ...thưa thầy nhờ thầy xem lại quẻ. Đúng là thác đêm ạ.

Thầy: (gieo quẻ xong ngâm) vốn xưa...hồn thác ban ngày. Nhưng vì thương tin ngươi. hồn rày thác đêm. Ừ ừ thác đêm nhưng...Ta đoán không nhầm thì mộ lãm lại cất dưới đồng lấy đúng không nào?

Cô gái: Dạ...thưa thấy cất trên cồn ạ.

Thầy: Cất đưới đồng lầy.

Cô gái: Dạ...thưa thầy cất trên cồn ạ.

Thầy: Theo quẻ cho biết cất đồng lầy mới đúng

Cô gái: Dạ...thưa thầy nhờ thầy xem lại quẻ. Đúng là cất trên cồn ạ.

Thầy: Ừ ta xem lại xem sao (gieo quẻ xong ngâm).Vốn xưa...cất ở đồng lầy nhưng vì chứng lụt lội...cất ngay lên cồn ừ ừ cất trên cồn. Nhưng ta cũng cho cô biết nếu mộ của ông cất dưới đồng lầy thì chồng của cô được khỏe mạnh, bay bổng vươn a làm ăn phát đạt. Nhưng bây giờ đã đưa mộ ông lên cồn thì chồng của cô phải gánh hậu quả.

Cô gái: Dạ...dạ! Thưa thầy vì sao ạ?

Thầy: Vì cô cũng biết đấy, nếu mộ của ông cất dưới đồng lầy thì mạch dưới ung thấp hơn mạch trong nhà nên không bị ức chế. Còn bây giờ đã đưa mộ ông lên cồn thì chồng của cô phải gánh hậu quả vì mạch trên cồn cao hơn mạch trong gia đi. Nhưng cũng may cho chồng cô vì mạch này mới chạm đến đầu ngõ. Cho nên mới có câu “Động từ đầu ngõ động ra, mà động từ ngã bảy ngã ba động vào”.

Cô gái: Dạ...dạ thưa thấy thế bây giờ con phải làm gì ạ.

Thầy: Việc này cũng dễ thôi, nhưng cũng tốn hết khá nhiều tiền đấy.

Cô gái: Dạ...dạ thưa thầy cứ chỉ dẫn dù hết bao nhiêu con cũng tin theo ạ

Thầy: Vậy cô hãy nghe đây, cô về nhà tìm thầy cúng giỏi đến kể hết mọi chuyện cho thấy nghe thầy sẽ có cách.

Cô gái: Dạ thưa thấy có chóng như vậy không ạ?

Thầy: Đúng như vậy, nhưng cô hãy nhớ cho sau khi làm xong thủ tục trong nhà tai nhờ thầy tạ thần linh ngoài mộ cho cụ là ổn.

Cô gái: Dạ thưa thầy nếu được như vậy thì may cho gia đình con quá. Con xin cảm ơn thầy. Con cáo từ thầy ạ.

Tiết 2: Học sinh đang chơi đùa, thầy giáo ra

Học sinh: Chúng em chào thầy ạ,

Thầy giáo: Các em ngồi xuống nào các em đến đủ chưa nào,

Học sinh: Dạ, các em đến đủ cả rồi ạ.

Thầy giáo: Các em trật tự nào, bắt đầu học thầy có vài ý kiến với các em là: Thầy dạy các em học để làm người, chứ thầy không dạy các em học làm quan nghe chưa (học sinh dạ). Nhưng nếu em nào học giỏi thì nên tham gia giúp nước nghe chưa (học sinh dạ). Còn những em nào không đạt thì phải làm người lương thiện không tầm điếu thất đức, bất nghĩa bất nhân nghe chưa (học sinh dạ)

Thầy giáo: Bây giờ đến giờ các em dở sách xem có những môn gì nào.

Học sinh: Dạ thưa thầy hôm nay có hai môn là ám tả và phép tính ạ.

Thầy giáo: Thế bài ám tả hôm nay là Thiên thời địa đất.

Bắt đầu:

Thiên là trời (học sinh đọc lại, Thiên là trời);

Địa là đất (học sinh đọc lại, Địa là đất);

Tử là cất (học sinh đọc lại, Tử là cất);

Tồn là còn (học sinh đọc lại, Tồn là còn);

Tử là con (học sinh đọc lại, Tử là con);

Tôn là cháu học sinh đọc lại, Tôn là cháu);

Lục là sáu (học sinh đọc lại, Lục là sáu);

Tam là ba (học sinh đọc lại, Tam là ba);

Gia là nhà (học sinh đọc lại, Gia là nhà);

Quốc là nước (học sinh đọc lại, Quốc là nước);

Tiền là trước (học sinh đọc lại, Tiền là trước);

Hậu là sau (học sinh đọc lại, Hậu là sau);

Ngưu là trâu (học sinh đọc lại, Ngưu là trâu);

Mà là ngựa (học sinh đọc lại, Mã là Ngựa);

Cạ là cựa (học sinh đọc lại, Cạ là cựa);

Nha là răng (học sinh đọc lại, nha là răng).

Bây giờ sang phép tính. Các em ghi vào sách 9 quân số từ 1 đến 9 và chín quân nó đại diện cho 9 phép tính. Nếu em nào không học thuộc Bài quy tắc này thì hông thể tìm ra được chín phép tính nghe chưa.

Thầy giáo: Bắt đầu, Tứ hải tam hài ra bát động học sinh đọc lại)

Cửu long ngũ hổ địch nhất nhân (học sinh đọc lại). Nhị thần thất tương dối cục quốc (học sinh đọc lại).

Sau khi thầy trò đọc xong 3 lần ám tả và ba lần bài quy tắc tính và tìm ra 9 phép tính là hết tiết 2.

Tiết 3: Bốn chàng trai Xiêm Thành ra nhảy điệu Xiêm Thành xong, một trong người có một người bị bệnh nằm xuống tại chỗ. Xong ba người còn lại có mặt chụm tay vào gọi. Xiếc xăng lơ Xiêm Thành ngã nước mời thầy cứu với. Rồi cả ba mãn người bị bệnh vào là hết tiết hai

Tiết 4: Thầy bèo ra nói giọng lão say, chân nam đá chân xiêu (ngâm): Khi vui chơi hũ rượu, nay a rằng xem khi lão buồn lão nhớ đến ới hả ối ha hỳ ha anh em hội chòi.

Quyết: Ới thầy ơi...thầy đã say rồi hội chèo chứ.

Thầy bèo: Ừ ừ ta đã say rồi ta đã say thật rồi nhưng Quyết ạ ta đã say nhưng không phải say men hay say rượu,

Mà cũng không phải ta say ngãi hay say tình,

Mà ta say đây là say thơ Lý Bạch và say đàn Bá Nha đó con,

Vậy con hãy mang cây đàn ra đây để ta chơi vài cung đàn Bá Nha và ngâm vài câu thơ Lý Bạch nghe nào a ha ha ha.

Quyết: Dạ thưa thầy đàn đây ạ.

Thầy bèo (đỡ lấy đàn), được con hãy lui:

(dạo đàn) có con gái nhà ai,

Mà hái xem chơi ở...bên ngoài nhược gia,

Chứ giọng cười...cách mặt đóa hoa,

Cùng ai nói nói...mặn mà thêm xinh,

Áo quần...mắc mới trắng tinh.

(Khách gọi): Xiếc xăng lơ...Xiêm Thành ngã nước thầy cứu với,

Thầy bèo: Nắng soi đáy nước...lung linh bóng ròng

Quyết: Dạ thưa thầy nhà ta có khách kêu ạ.

Thầy bèo: Hử nhà ta có khách kêu đấy hử?

Quyết: Dạ thưa thầy, vâng ạ.

Thầy bèo: Vậy khách kêu đường nào đấy con.

Quyết: Dạ thưa thấy khách kêu đường đông ạ.

Thầy bèo: Hử khách kêu đường đông đấy hử,

Khách kêu đường đông là động khứ tây lai,

Còn nam thì vô sự mà bắc thì hữu tài đó con,

A ha ha ha ha. Vậy con hãy ra xem:

(Ngâm tiếp) Tung bay...tà áo gió tung bay lên phấp phới...không trung ngọt mâm xa chàng trẻ nhà nào, ngựa hồng dong lên bờ cao bóng người, lần theo từng cánh hoa rơi, ngẫm xem ai đó ngậm ngùi tiếc thương.

Quyết: Dạ thưa thấy có khách đến xin chữa bệnh ạ.

Thần bèo: Hừ, khách đến xin chữa bệnh đấy hử? Vậy con bố trí vào phòng chưa nào.

Quyết: Dạ thưa thầy con đã bố trí xong rồi ạ.

Thầy bèo: Vậy con chuẩn bị bắt mạch xem đầu nó nóng hay đầu nó lạnh nào.

Quyết: Bắt mạch xong dạ dạ...dạ thưa thầy.

Thầy bèo: Làm sao mà con hốt hoảng thế!

Quyết: Dạ...dạ thưa thầy đầu nó nóng nhiều ạ.

Thầy bèo: Đầu đầu nó nóng nhiều hử thế mày múc múc múc một xô nước lạnh vào đầu nó cho ta, rồi lấy khăn bông ướt đắp lại nghe chửa.

Quyết: Dạ vâng ạ.

Thầy bèo: Dạ...thưa thầy gọi con ạ.

Thầy bèo: Phải, mày vào bắt mạch lại xem đầu nó thế nào rồi nào?

Quyết: Bắt mạch xong. Dạ dạ dạ thưa thầy,

Thầy bèo: Làm sao mà hốt hoảng thế,

Quyết: Dạ dạ thưa thầy đầu nó lại lạnh lạnh ạ.

Thầy bèo: Hử đầu nó lại lạnh hử? Thế nó lạnh nhiều hay lạnh ít?

Quyết: Dạ đầu nó lạnh nhiều ạ!

Thầy bèo: Thế mày hãy nổi lửa lên, quạt thốc vào đầu nó cho ta.

Quyết: Quạt thốc lửa vào đầu người bệnh.

Bệnh nhân: (bệnh nhân bị nóng quá nhổm dậy xoa đầu) Dạ thưa thầy con đã con đã khỏi bệnh rồi ạ.

Thầy bèo: Sao? Ngươi nói sao?

Bệnh nhân: Dạ thưa thấy con đã khỏi bệnh thật rồi ạ.

Thầy bèo: Vỗ đùi vang một chập đứng dậy

Kết thúc trò Xiêm Thành

5.2.2.5 Trò Văn Vương (còn gọi là Trò Văn Vương hay là Trò Bắt cọp)

Ý nghĩa của Trò Bắt Cọp:

Trò Bắt Cọp ở Đông Sơn hiện có hai nơi vẫn còn văn bản tương đối hoàn chỉnh. Đó là xã Đông Văn và Đông Anh. Ở Đông Anh trò này còn gọi là trò Văn Vương. Không rõ trò này vốn có của làng Viên Khê (Đông Anh), hay là trò từ nơi anh về và được bảo lưu ở đây qua các khoá thi trò. Văn bản trò Bắt Cọp ở Đông Anh và Đông Văn không khác nhau lắm.

Nhân vật diễn trò gồm 14 người (trong đó 1 trưởng trò, 1 quan võ, 12 lính) và 1 con cọp (hóa trang).

Trò diễn tả lại cuộc săn cọp. Thứ tự buổi trình diễn: quan võ và 12 lính đi vòng tròn ngược theo chiều kim đồng hồ để biểu dương lực lượng. Một con cọp xuất hiện, nhe nanh, múa vuốt, diễu võ dương oai. Quân lính xếp thành vòng tròn quanh quan võ. Con cọp vào vòng. Quan võ tay không đánh nhau với cọp trong tiếng mèn đánh dồn dập của trưởng trò. Kết cục, cọp bị thua, lính trói cọp lại khiêng đi.

Trò này nghiêng về nhảy múa, có nhiều động tác diễn xuất thể hiện việc săn Nhạc khí thô sơ, chủ yếu là mèn (còng nhỏ), lời đối thoại ít.

Những trò gắn với lịch sử ở đây, bao gồm những trò liên quan đến một nhân vật sự kiện lịch sử hoặc phản ánh những sinh hoạt văn hoá gắn với lịch sử địa phương. Thuộc loại trò này gồm: Trò Ngô, trò Hà Lan, trò Tung cù.

Thực hành trình diễn trò Bắt Cọp

Nội dung trò diễn như sau:

Thôn trưởng vào đề:

Loa loa... loa loa tin gần đồn xa,

Tin xa hay về hổ lang đã về làng

Xin thông báo làng trên xóm dưới

Được biết để sẵn sàng chiến đấu loa loa loa

Riêng thanh niên tuổi trẻ phải chuẩn bị

Gươm giáo súng ống để sẵn sàng đợi lệnh u u

Cuộc vây bắt hôm nay do chủ săn là

……... chỉ huy toàn phần vậy tất cả anh em

Hãy Nẵn sàng đợi lệnh loa loa loa.

Chủ săn: Tất cả anh em chuẩn bị sẵn sàng (trống nổi lên, hổ trong vườn rậm nhảy ra)

Chim săn: Tất cả anh em bao vây không cho nó thoát (vây hổ xong),

Chủ săn: Hỏi tên người ghi vào sổ.

Chủ mày chủ chi: tôi là chủ Cường;

Tôi cường chủ, chủ máy chủ chi: tôi là chủ Cán;

Tôi cản chú, chú này chú chi: tôi là chú Thiên;

Tôi thiên chủ, chủ này chủ chi: tôi là chú Vạn;

Tôi vạn chủ, chủ này chủ chi: tôi là chủ Lực;

Tôi lực chủ, chủ này chủ chi: tôi là chủ Sỹ;

Tôi sẽ chủ, chủ này chủ chi: tôi là chi Tinh;

Tôi tinh chú, chủ này chủ chi: Tôi là chủ Binh;

Tôi binh chủ, chủ này chủ chi: tôi là chủ Cứ;

Tôi cứ chủ. Chủ này chủ chi: tôi là chủ Phép;

Tôi phép chủ, chủ này chủ chi: tôi chủ Sai;

Tôi sai chủ, chủ này chủ chi: tôi chủ Hành;

Tối hành chú.

Chủ săn: (Đi đóng cọc vây lưới xong vác loa kêu gọi)

Hồi hơi hẹ các cơ hội ta he súng ống bày gia hẹ

Gửi đi truyền điệp, bẹ, nghề truyền cứ phụ hẹ chẳng được.

Chủ săn: Chạy cường hệ

Nào là chủ cường hệ nào là chú cán hẹ,

Nào là chủ lực họ nào là chủ sỹ hẹ,

Chú cứ chú phép hẹ chú sai chú hành hẹ.

Có hàng cơ ta hẹ. Mang ra cung tiến hẹ cho đức Đại vương (vây hổ xong). Hổ nằm gọn trong lưới khiêng lên giàn thành hàng ngang. Chào khán giả.

Dưới đây là trận đồ vây hổ

Cường                      Bình                            Vạn

Cứ                                                                    Hành

Lực                                Hổ                              Tinh

Phép                                                               Sai

Cán                          Sỹ                                   Thiên

Kết thúc Trò Văn Vương

5.2.2.6. Trò Tiên Cuội

Ý nghĩa của Trò Tiên Cuội:

Tiên Cuội là một trong năm trò nổi tiếng ở Bôn (Đông Thanh). Ở đây trò được Liên Phường Nhân dân vùng Bên truyền lại rằng: Trò này được Phùng Khắc Khoan soạn ra, không rõ trạng Bùng có phải là tác giả của trò này không, nhưng xét ngôn ngữ, lời ca, trò này phải do những người có trình độ nhất định mới sáng tác được. Dĩ nhiên không loại trừ yếu tố thêm thắt sau này của nghệ nhân diễn trò. Ở Thanh Hóa có nhiều giai thoại và di tích liên quan đến chuyện tiên. Câu chuyện tình Từ Thức - Giáng Hương không chỉ là một giấc mơ thoát tục mà còn được gắn với động Từ Thức ở Nga Sơn và cô gái vùng Quan Họ.

Ở Đông Sơn có nhiều địa danh có liên quan đến chuyện tiện hạ giới như: Bàn chân tiên (Thiệu Vận), núi Cánh Tiên (Hàm Rồng), động Cô Tiên (Đông Sơn).

Nội dung lời ca của vũ khúc Tiên Cuội là dựa theo một câu chuyện tiên vẫn thường lưu hành trong vùng Đông Sơn và một số nơi khác. Truyện kể rằng: Có một đêm mười hai cô tiên nữ dạo chơi trên cung trăng, trong lúc ngắm cảnh hồ sen, đoán tiên gặp Cuội. Trước lạ sau quen, Cuội trò chuyện thân mật với các cô, rồi đem lòng

yêu một cô tiên nữ đẹp nhất. Tiên nữ cũng gắn bó với Cuội. Hai người lấy nhau, nhưng chung sống chưa được bao lâu thì Ngọc Hoàng gọi Tiên nữ về. Không thể trái lệnh vua cha, Tiên nữ lòng rất đau khổ, nhưng đành phải chia tay vĩnh biệt. Cuội vô cùng đau xót, suốt ngày buồn rầu chán nản, cuối cùng sầu não quá mà chết. Đoàn tiên nữ cảm động vì mối tình thiết tha ấy, bèn quay lại làm phép cho Cuội hồi sinh.

Câu chuyện phảng phất như truyện Duyên Tiên, truyện Nàng tiên thứ bảy của Trung Quốc, song có điều những chi tiết trong truyện Tiên Cuội trình bày không được chặt chẽ lắm. Trình tự thời gian và sự diễn biến của câu chuyện nhiều chỗ khá đột ngột, thêm vào đó là những đoạn triết lý, những động tác có tính chất mê tín xen vào, làm cho câu chuyện trở nên rời rạc. Tuy vậy, nội dung truyện Tiên Cuội vẫn sáng rõ: Bên cạnh việc ca ngợi mối tình duyên lứa, còn biểu hiện lòng thiết tha yêu quê hương.

Mười hai tiên nữ ăn mặc lộng lẫy, xiêm áo đầy mầu sắc, tóc vấn tròn, đội mũ cửu long hoặc kết hoa trên đầu. Cuội hóa trang theo kiểu mục đồng, đầu chít bớp, tay cầm mõ. Mười hai tiên nữ chia thành hai hàng đi ra với những động tác rất uyển chuyển. Đội hình chuyển biến rất linh hoạt: Lúc đầu xếp hai hàng dọc, sau chuyển thành hai hàng ngang rồi lại chở về hàng dọc như cũ.

Sau đó đội hình tỏa ra thành hai hàng lượn vòng ra hai bên, thướt tha và nhẹ nhàng vây lấy Cuội, Cuội thì nhảy lên nhảy xuống, lượn qua lượn lại giữa hai hàng Tết Động tác múa của Cuội đơn giản nhưng hết sức mềm mại.

Những đoạn Cuội than, động tác thu gọn lại, lúc này chủ yếu là thể hiện tình cảm bằng những nét mặt. Âm nhạc làm nền cho điệu múa là những làn điệu có tính chất trữ tình, dùng tới khoảng 10 đến 12 làn điệu, mỗi làn điệu mang một tính chất khác nhau, trong sáng, vui tươi hoặc lẳng lơ, khôi hài, đau xót.

Trò Tiên Cuội được nhân dân rất ưa thích, có những đoạn đối thoại Tiên Cuội đã trở thành đồng dao. “Con trò” chuyên đóng Cuội được dân làng gọi theo tên Cuội.

Hình thức trình diễn của Trò Tiên Cuội

Nội dung cụ thể như sau:

Đệ nhất tiên nữ. Này các em, đêm nay trăng thanh gió mát, lúa trên đồng cày cấy đã xong, trộn giấu Ngọc Hoàng xuống trần để chơi xuân và ca hát nào (phải rồi) vậy ta xuống trần nào, bầy tiên lần lượt bay xuống (tất cả 12 người trên đồng thanh)

Các em dâng nén hương để chúc mừng Thánh đế nào (dàn thành hàng ngang chắp tay trước ngực): Tiên nữ tôi dâng một nén hương, chúc mừng thánh đế thọ vô ngữ đại vương nay giáng phúc gái trai già trẻ thọ duyên trường,

Đệ nhất tiên nữ: A thượng hương, tôi chúc a dân a làng văn ạ chiếm a khôi nguyên;

Đệ nhị tiên nữ: A thượng hưởng, tôi chúc a dân a làng võ tước a quận công,

Đệ tam tiên nữ: A thượng hưởng tới chúc a dân à làng à ngũ phúc a gồm nho,

Vậy kính trình dân xã Thượng Hạ các nơi nín lặng nghe tôi giáo tiên một cách,

Nhớ xưa có tích gọi bằng thần tiên, vốn ở thượng thiên chầu vua thượng đế,

Ra vào ngọc bệ sửa mũ nâng khăn nhổn nha áo quần hay múa hay hát;

Thiều quang bóng mát những thuở xuống chơi, tôi áng xuân đài vui chiều phong cảnh.

Múa chơi đủng đỉnh kính sự đại vương, vậy có câu thơ tiên rằng:

Bạn tiên ta vốn chốn non bồng,

Chầu trực đem ngày trước bệ rồng,

Gặp tuyết xuân bà xuống chơi thong thả,

Múa mừng lên xã phú quý thọ khang ninh.

(dập trống dàn thành hai hàng dọc):

Trời í a à á cao a (nguyệt lặn í à gió thanh),

Bạn tiên à vốn a ở côi a danh á vời xa vời;

Non a bồng à (bích nhược á nơi mọi nơi);

Vui niềm à cực à lạc lánh nơi á trần phàm trần;

Giang í i á tay a (tẩu phúc á quân thiều quân)

Nước Nam a mừng a có thánh a quân á đại trị đời;

Khang cù à nước nhược á nơi mọi nơi;

Đâu đâu a lừng à lẫy vì vui á thời phải thời;

Gió ý à á đưa a, thơm ngát í ả ngạt ngào;

Một đoàn thực khách a ra vào a lai bồng lai;

Vênh í à á vênh a một áng í à lâu dài;

Quần huê à xếp ạ cánh á ta múa chơi á dàng dịu dàng;

 Xuân vừa gặp tuyết á quang thiều quang;

Múa mừng à dân a xã a thọ cường a hoa vinh hoa;

Bệ rồng chầu trực vừa thôi;

Hẹn tiên ta được nghỉ ngơi thỏa lòng;

(Quay lại ngồi xuống) Hồ á à á xem a vừa mát á trong vừa trong;

Nào ai à tắm ạ mát á ta vẫy vùng a ai mặc ai;

(gõ hôi) Hỡi các tiện nữ:

(Tiên đáp): Ngày xưa ở chốn vườn đào tích đào làm sao, Tôi đố các cô các chị Tiên ta được biết.

Tiên: Nghe lời truyền thuyết a là hoa Lữ khương giống ở Đông phương trồng 60 năm mới sinh được hoa quả. Ta lấy á chơi đào chơi a ta lấy a quả đào à rằng múc nước á chơi ta chơi,

Ta lấy quả đào rằng múc nước ả chơi ta chơi.

Cuội dạ dạ:

Bớ vậy mà này này tôi kính trình dân xã,

Kính trình dân xã thượng hạ các ngôi,

Nín lặng nghe tôi bước vào tối giáo cuội,

Mà này này nay tôi là Cuội, nay tôi là Cuội,

Vốn ở cung trăng, tính khí lăng nhăng Cuội tôi hay nói dối, Mà này này bụng Cuội thời đói bụng Cuội thời đói,

Chi muốn ăn đào, tiên có lòng nào mà tiến lại tiếc,

Lẳng à á lơ ớ chị í à tiên ơi là chị í à tiên ơi,

(Để đâu a mà bỏ đào rơi á người tay người)

Ngâm í à á xem a Cuội cũng í ả nực cười,

Cuội cũng í ả nực cười ơ hơ hơ,

Đào tới a tay à người à rằng Cuội sánh á bằng tiên,

Mà này tôi khuyên các cô các chị,

Xin chớ lại đây vầy vui mở tiệc vườn đào,

Đường dục huê dù có lòng nào xin tỏ thực cho Cuội tôi được biết.

Tiên:

Hỡi là chú Cuội dạy bảo cho hay,

Các chị tiên nay chơi chốn cung mây,

Đường dục huê lâng lâng rửa sạch.

Cuội: Quần Cuội ba năm không sắt cũng sạch.

Tiên: Chạy lên nhất lạc

Tiên: Lọ là phải nhiều lời bàn bạc nhất nhật nhà là nhất nhật tiến vườn đào huê mở tiệc ca duyên,

Ăn chơi cho thỏa chư nhân sinh quý thích.

Cuội: Quý thích cốc xưng ả cốc xưng rằng Cuội để a nơi một nơi. Cuội để a nơi mm, moi ni nơi ni là hai nơi. Phòng khi thanh ạ vắng Cuội a chơi á nường cùng nường. Phòng khi thanh ạ vắng Cuội chơi á nường cùng nường.

Tiên: Lọ là mượn gió í à đưa duyên, mượn gió í à đưa duyên, người tiến lại kết, khách tiên á cùng bạn cùng, người tiến lại kết khách tiên á cùng bạn cùng.

Cuội: Lọ a là bích động í ả xa miền, kích động í ả xa miền, Cuội nay là vốn a cũng là tiên á đời trong đời.

Tiên: Lọ a là sự bởi í à nhân duyên sự bởi í à nhân duyên, anh hùng à gặp ạ khách thuyền quyên á vừa mới vừa.

Cuội: Được í a vui a hỡi khách í à cùng mây hỡi khách ý à cùng mây, Cuội đâu à có ạ dám a sánh bày a tiên cùng tiện (2 lần).

Tiên: Được vui í a hỡi khách í à non bồng bởi khách í ả non bồng,

Bồng sang bích động a chơi và cùng a thanh khách thanh (2 lần).

Cuội: Vốn à á xưa Cuội ở í à trong trắng

Cuội ở í à trong trăng xưa kia là bạn a ả Hằng a quen là quen (2 lần).

Tiên: Được vui a hỡi khách í à cùng mây, hỡi khách í à cùng mây,

Cuội đâu à có 4 dám a sánh bày a tiên cùng tiên (2 lần).

Tiên: Thưa a rằng Cuội tỏ ả vui được vui Cuội tỏ ả vui được vui,

Cây đa ạ bóng mát ạ mát cũng có nơi á đài nguyệt đài (2 lần).

Tiên: Quảng a hàn à dầu nhẫn í à duyên dừa, dầu nhân í à duyên đưa,

Cung trăng gặp khách tiên đưa á lòng thỏa lòng (2 lần).

Cuội: Ô a kiều ô thước 1 a à bắc sanh ô thước í à bắc sang,

Nữ ngưu à kia a cũng a một à đoàn a vui vầy vui (2 lần).

Tiên: Tung hồ vạn tuế thời vua yên lệ xuân khắp thiều quan, trên thời thánh hoàng giữ dân đồng lạc, dưới thời non nước những thuở chiếu chăn, trăm họ đại nhân tứ phương ngưỡng đức, tiến đồn đã nức tới chốn cung này, các chị tiện nay xuống chơi thong thả.

Múa mùng dân xã mở tiệc làm vui, các cấp trò rồi xin vào bái tạ tiên lên thượng

Cuội: Ới ơi…đợi tôi đợi tôi với

            Ới tham thương ơi ơi tham thương ơi các bạn quần tiên ta ơi,

            Bấy lâu nay bấy lâu nay đã bén duyên chàng

Cớ sao dả gia lòng gió chăng. Xăm xăm, xăm xăm tới cõi ả mai già, hỏi thăm hỏi thăm hỏi thăm nguyệt lão để có nhà có nhà hay không, tôi trách tôi con ông tạo rằng tạo hóa mới chẳng công.

Tay nâng tay nâng tay túi để tơ hồng tơ hồng chẳng xe, xe lại chẳn xe, xe quắn xe quýt, xe xăm bảy vòng mây có chưa chồng se cả chúng tôi. Kẻ chợ, kẻ chợ ba mươi sáu dãy phố phường.

Chẳng ai bắt nghĩa như nường…nường ơi (hú)

Tiên: Hời hợi quần tiên ta ơi, nay lên thượng thiên để người nhân gian cho nên mà cuội thác;

Nào là phù phép cùng thuốc linh đơn, các cấp dinh dưỡng sinh hoàn hồn cho Cuội để người nhân gian biết phép, hầy ơi ha ha là hạ ới hầy, nay tôi vâng lệnh Ngọc Hoàng chi giới tam chi đòng tây à nam bắc.

….

Chúa à á tiên à chúa bước a hoa hài hoa chân bước á hoa hài hoa,

Nường tôi í à thanh quế nết na tôi dịu dàng nết na tôi dịu dàng a,

Nường à á hơ là chơi cảnh á sen hồ sen chơi cảnh á sen hồ sen. Rút dây í à xa xuống ả kẻo phiền à kẻo phiền à a tôi lòng tôi, kẻo phiền a tôi lòng tôi như đũa có à đôi a có à á tôi như đũa á đôi có đôi. Như đũa á đôi có đội, không tồi í à quan tướng bồi à bồi à bồi hồi là trông nhớ trông bồi hồi là trông nhớ trông,

Bây giờ bây giờ là đáo đàn trong thầy sai đội bộ lục nhưng nường ân nương ái bốn nường điểm trang a tính à á hay và măng trúc á giang măng giang măng tre í à năng nứa ả chè à a hàng cho hàng là ớ cơm lam, chè hàng là ở cơm lam,

Thời phải đi tìm a tính à á hay là thời phải a đi a tìm là hy hư hà hy hừ. sơn lâm í à chưa dễ ai đem cho nường ai đem cho nường a phòng à á khi bẻ lá thương che thương bẻ lá thương che thương,

Chẳng quản chiếu giường chẳng ngại nước mây a phòng ả á khi à tướng đó đây này đây, tướng đó đây thày đây. Sơn lâm í à chưa dễ một cây cho nên rừng, một cây cho nên rừng; a tướng à á trai à lời đợi a núi à rồng hà hy hư hà hy hừ, tướng gái à đeo vòng à uốn lượn ả mây tóc Tây. Uốn lượn a mây tóc mây. Hỡi các bạn quần tiên ta ơi các cấp trò rồi xin vào bái khôi hà tứ hái.

Tôi xin dẫn bốn chữ chàng sinh thiên tuế:

Chàng có là à chàng à tồn vạn đại ý a,

Nay mừng à dân xã ta là thịnh á càng thêm thịnh ta ý ha, Sinh có lạ à sinh sinh á được quế tử có lên tôn ha ý ha, Thiên có lạ à thiên thiên á niên à vạn thọ ha ý ha,

Nay mừng à dân xã ta à thịnh càng thịnh ha ý ha,

Tuế có lạ à tuế niên á tăng à tuế thọ ha ý ha,

Nay mừng à dân xã ta thịnh á càng thêm thịnh hay ha

Kết thúc trò Tiên Cuội.

5.2.2.7. Trò Hà Lan

Ý nghĩa của Trò Hà Lan:

Trò Hà Lan còn gọi là trò Huế Lang, là một vũ khúc có lời ca, trò này tổ chức oá trang công phu nhất trong các trò hát múa ở Đông Anh. Các nhân vật gồm có một kỳ lân, một vị chúa và nhiều quân lính. Chúa mặc áo thêu rồng, có đai, gấu áo thêu ân sóng, đội mũ cánh chuồn nhưng lại na ná kiểu mũ bình thiên quân. Trong số quân đi theo chúa, có 2 người mang mặt nạ, mũi rất to (bằng nắm tay), vai vác siêu đao. Lúc bước ra, sân khấu, cả đoàn đi tuần tự và xếp thành hình chữ "Á". Khi hát, chúa sát trước, quân hát theo hoặc chúa cầm nhịp cho quân đồng ca. Lúc múa cờ, chúa cầm cờ lụa trắng, dài khoảng 10m, rộng khoảng 10cm. Lúc chuyển sang múa quạt, thì uân mỗi người cầm 2 quạt, chúa múa siêu đao.

Ở Xuân Phả (huyện Thọ Xuân) người ta cũng diễn trò này và gọi là Huê Lang. Ở Đông Thanh (Đông Sơn) gọi là Lan Phường hay tuồng Hòa Lan. Ở Đông Anh Đông Sơn) gọi là Hà Lan. Về tên gọi này có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng, Huê Lang là tên gọi dân tộc Mường ở miền núi Thanh Hóa. Người mặc áo thêu rồng, đội mũ cánh chuồn là chúa Mường. Hai tên quân đeo mặt nạ là tượng trưng cho người Ai Lao, còn những người khác tượng trưng cho dân tộc Mường: Trò diễn tả ảnh các nhà Lang Mường vào cung tiến vua.

Ở Đông Thanh, trò Lan Phường nằm trong hệ thống Trò Bôn. Theo văn bản hép vào thời Tự Đức (1883) thì trò này chỉ khác trò Ngô ở phần đầu, còn phần sau giống trò Ngô. Nghệ nhân khi biểu diễn chỉ thay chữ “bớ chú Ngô kia” bằng chữ “bớ chú Hà Lan kia”. Số người tham dự trò này ở Bôn (Đông Thanh, Đông Sơn) có tới 40 người.

Do tính chất của trò Hà Lan, trong lời ca có nhiều câu chúc tụng vua quan. Nhân dân rất thích trò này, nhất là âm điệu lời ca, cách thức hóa trang và điệu múa.

Những trò diễn phản ánh đời sống xã hội thường là những trò có tính kịch, gần với hoạt cảnh và phát triển gần tới mức sân khấu sơ khai. Tiêu biểu cho loại trò này: Tú Huần, Trống Mỹ, Tiên Cuội.

Hình thức trình diễn:

Trò diễn này có tác giả cho rằng đó là việc diễn tả lại việc triều cống vua Lê la chúa mường, nó có thể bắt nguồn từ điệu múa “chư hầu lai triều”.

Các vai diễn:

Một kỳ lân, hai ngựa, một vị chúa và một số nhân vật khác;

Con trò: 10 nhân vật nữ;

Nhạc công: 03 người;

Trang phục:

03 bộ quần áo nam màu vàng nhạc công);

03 khăn chít đầu màu đỏ;

01 áo màu vàng, hai thân thêu rồng (công chúa);

01 quần trắng, 01 xiêm lá xoài đeo ở ngực có tua, viền bằng các màu sắc sặc sỡ, 01 mũ cánh chuồn có hai đại xuống 2 tai, ở trán có mũ hình bán nguyệt, có hình bướm hai bên như hình vương miện, 01 thắt lưng xanh, 01 xiêm dài 0,6m và 01 cây ở đuôi nheo.

Trang phục con trò gồm:

10 áo vắt ngang, tứ thân màu xanh, đỏ, vàng (may lệch màu), tà áo có viền màu tủa xuống, đeo trước ngực có gắn kim tuyến các loại hoa có tua ở viền tủa xuống màu vàng nền xanh, 10 cái yếm trắng, 10 cái thắt lưng xanh dài.

11 đôi tất tay, chân màu da người và một số trang phục khác như mặt nạ vv…

Nhạc cụ: trống, nhị, hồ...

Nội dung trò diễn

(Chúa công hát trước, con trò hát sau)

Chúa mặc áo thêu rồng, có đai, gấu áo thêu làn sóng, đầu đội mũ cánh chuồn, núa bước ra ngoài, cả đoàn đi tuần tự theo hình chữ A. Lúc múa, chúa cầm một lá cờ lúa; khi chuyển sang múa quạt thì chúa cầm siêu đao:

Quê à á ta đóng áng ở giữa làng,

(Trông vào lổ lộ a những à rồng những rồng a mây cùng mây).

Ba á à á năm một khoá trò lề,

(Lấy chồng hàng tỉnh á thời à về thời về a xem mà xem).

Ba á à á năm một khoá á trò chơi,

(Đông tây à nam á bắc a xin à mời xin mời đây về đây).

Chúc á mừng mở tiệc à vui thay,

(Bốn dân à hội lệ á vào ngày vào ngày a giêng tháng giêng).

Gái à á trai già trẻ á hoà đồng,

(Ai ai a thời cũng a một à lòng một lòng no ấm no).

Chúc a mừng gặp hội a thái bình,

(Rừng xanh à bụi thỏ a bể trầm bể trầm hoa ngọc hoa).

Một a thời lưu loát á khí hoà,

(Rừng cà hớn hở a trẻ à già trẻ già vui cùng vui).

Thênh á à thênh bể phúc à khoan bơi,

(Khi lên a sối bích khi chơi a đào vườn đào).

Ta bắt mái chèo lên,

(Chèo từ a làng phú tới nơi à hồng làng hồng).

Giô hò gió gió hò giô,

Nước lên a như cánh à chim tung,

(Hai hàng à hai lá cờ treo leo cột lèo).

Giô hò gió gió hò giô,

Trên bờ trống dục à người reo,

(Dưới sông à dô huấy a tiếng à chèo tiếng chèo nhanh á nhanh).

Rô hò rô rô hò rô,

Ta chèo a cho đều,

(Đố ai a bắt được thời theo a này gái này).

Xinh là xinh, xinh là xinh,

Thuyền đả tới bến à ai ơi,

(Cắm sào à cho chặt vào chơi giầu sợi giầu).

Khoan là khoan khoan là khoan.

(Chúa nói vọng): Thuyền tôi ở nước Hà Lan,

Tôi nghe đức chính tôi sang chào chầu.

Tập thể hát:  Nay á mừng mở tiệc à vui xuân,

(Trời nghiêu à ngày thuấn xương ca bời chơi bời).

(Hai tay a dâng lấy chén quỳnh lên dâng lên).

Chúc mừng vua muôn tuổi a vạn niên,

(Ngai vàng à ngự trị bình yên a bình thái bình).

Tay tiên à mở túi hồng nhan a giầu sơi giầu).

Chúc mừng à văn vỏ á hai hàng,

(Văn chiếm a bảng vàng, võ chiếm a quận công.

(Chúc mừng à quan lão a hiển vinh trường thọ trường).

(Chúc mừng a quan viên quê ta),

Ơn trên lại được vinh hoa quyền quý quyền).

Chúng tôi mừng cả các thôn,

Mở tiệc vui a vui vầy vui thật là vui,

                                 Chúc mừng à người được a thăng quan rầy từ rầy,

Ba quân a chỉ ngọn a cờ đào,

Phất cờ a nương tử a lẽ à nào lẽ nào hay ai hay,

Đàn bà à dễ mấy à ai ơi,

(Đời xưa a mấy mặt a đời này đời này gan mấy gan).

Chiếu thư a vâng trước à thiên an,

(Ra tay a dẹp loạn cho yên a nhà nước nhà).

Dốc á lòng theo việc à quân vương,

(Tay gươm à yên ngựa á trên à đường trên đường dong thong dong).

Làm trai a phí chí á tang bồng,

(Mũi gươm a chỉ a đất a dùi a đồng dùi đồng non chỉ non).

Chúng tôi a đã hát á chúc rồi,

(Tôi xin a đánh a chống chèo chơi a tình huê tình).

Từ ngày em chống thuyền vào,

(Mặt anh a hớn hở a như à đào như đào cây trên cây).

Từ ngày à em trống a thuyền ra,

(Mặt anh a ruời cười như hoa cành lìa cành).

Khi vui a non nước a cùng vui,

(Khi buồn a sáo thổi kèn đôi a buồn củng buồn).

Em như a cây bách á cây tùng,

Chín lần à mây phủ còn mong gì nổi gì)?,

Em như a cây quế a nhà quan,

(Trai khôn a tìm vợ á gái ngoan tìm à chồng).

Chim khôn a mắc phải á lưới hồng,

(Ai mà bắt được a đền công a vàng lạng vàng).

Đền vàng à anh chẳng á lấy vàng,

(Anh mà gỡ được a thời à nàng thời nàng lấy anh).

Một á mừng a ngư thuỷ a hợp vui,

Hai á mừng bốn biển ở một nhà,

Ba mừng và sơn thuỷ á vui cùng vui,

(Có non à hồ lĩnh a có à ngòi có ngòi xuyên long xuyên).

Bốn mừng à thịnh của á no người,

(Năm mừng thế giới a chín mười chín mười thiền ngày thiền).

Kết thúc Trò Hà Lan

5.2.2.8. Trò Thủy

Ý nghĩa của Trò Thủy:

Trò Thuỷ là một hình thức ca vũ đặc sắc ở Đông Anh. Hằng năm, từ mồng 4 háng Giêng (âm lịch), các nghệ nhân tập trung luyện tập, đến 11 tháng Hai bắt đầu hai diễn tại cánh đồng bờ sông Con, đoạn sông này thuộc xã Đông Tiến. Đến ngày 6 tháng Hai kéo xuống chợ Mới (nay thuộc đất xã Đông Xuân) để biểu diễn tại Mục Thuận (nay thuộc xã Đông Yên).

Trò diễn tổ chức giữa cánh đồng, có đông người tham gia. 16 người cầm, 16 mái chèo, đứng thành hai hàng. Một người cầm trống đúng một bên, một người cầm hiêng (tiếng địa phương gọi là mèn) đứng một bên, một người cầm sênh đi sau cùng. Theo lời một số nghệ nhân cao tuổi kể lại trước đây vào khoảng những năm 1926 - 1927, còn có thêm 2 người, tay cầm gươm vàng lượn xung quanh những mái chèo, tay vung kiếm loang loáng với những động tác thật mau lẹ. Về sau, hai người này chết, Người ta bỏ luôn động tác múa gươm.

Tất cả con trò đều mặc đồng phục: quần trắng, áo đỏ thắt lưng xanh thả múi bên hông. Theo lời giải thích của các nghệ nhân, quần trắng tượng trưng cho dòng nước ac. Cách trang phục như vậy là bắt buộc khi diễn trò.

Trò Thuỷ gồm có 6 đoạn, lời ca mỗi đoạn phù hợp với động tác múa. Các đoạn đó là:

1. Mở đầu

2. Giáo thuyền

3. Khai chèo

4. Đi chèo

5. Mái giậm

6. Chèo bay

Mỗi khi lời ca chuyển sang đoạn khác, tất cả trống chiêng nổi lên dồn dập, sau ng dần. Cuối cùng các mái chèo chuyển nhịp theo điệu sênh gõ rất nhịp nhàng. Khi Ang điệu giáo thuyền thì những người cầm chèo đều ngồi xuống, mái chèo đặt trước mặt, chân xếp chữ bát và tay vái.

Về nguồn gốc và ý nghĩa của trò này hiện còn những suy nghĩ khác nhau. Theo nội dung bài ca, thì trò diễn tả sự vui mừng của dân làng nhớ có dòng mương đưa ước vào ruộng, làm cho ngô lúa xanh tươi. Cảnh đua thuyền hát xướng cũng là để tỏ Cảm xúc hân hoan khi dòng nước đã về đồng. Nhưng theo các nghệ nhân thì trò này có nguồn gốc xâu xa hơn.

Một số người cho rằng, biểu diễn Trò Thuỷ là để chúc mừng và ca ngợi Cao Hoàng, người xưa kia đã có công làm một số công trình thuỷ lợi, nhờ đó mùa màng lốt tươi, nhân dân no ấm.

Một số nghệ nhân khác cho rằng, Trò Thuỷ là để chúc mừng và ca ngợi cuộc tiến quân của Lê Lợi. Lê Lợi khởi nghĩa năm 1418, hoạt động ở Thanh Hoá. Hai trận đánh đầu tiên của Lê Lợi với quân Minh bị thua to, phải giảng hoà. Sau Lê Lợi nghe lời bàn của Lê Chích mở rộng địa bàn hoạt động về phía Nghệ An để lấy chỗ dựa, tăng cường lực lượng chuẩn bị tấn công Đông Đô. Hồi ấy, đường bộ vào Nghệ An khó khăn, Lê Lợi cho đào sông qua Đông Sơn để lấy đường tiến quân.

Sau khi chiến thắng quân Minh, sông đào ở địa phận xã Đông Anh còn có tác dụng chống hạn. Nhân dân địa phương nhớ công ơn vua Lê, hàng năm tổ chức trò chơi diễn tả lại cuộc tấn công trên sông của nghĩa quân vào Nghệ An. Khi sông đào bị Lập (hiện chưa rõ vào năm nào), người ta vẫn giữ lệ đó và tổ chức vui chơi, dùng các động tác chèo bơi, chèo đua trên sân khấu (trên áng) để tượng trưng.

Trò Thuỷ là trò chơi đầu năm, đầu xuân nên trong lời ca có nhiều câu chúc tụng. Nội dung chính của hình thức ca vũ này là ở chỗ diễn tả được niềm vui mừng của nhân dân trước cảnh ruộng đồng xanh tươi, nhờ có công trình thuỷ lợi.

Hình thức trình diễn:

Tham gia đội múa có từ 5 - 7 người gồm có:

Chèo thuyền:

Phường chèo ớ ta, hỡi phường chèo ớ ta (đua nhau chèo chải nhịp ba í a cho đều),

Đôi í a tay nâng lấy mái chèo (nay mừng tuổi lão tuổi cao í a thọ trường,

Đầu năm khách hạ du xuân (dưới trên hoà thuận xóm làng í a vui thay).

Múa uốn tay:

Đôi í a tay nâng lấy mái chèo, gác mái cầm chèo ta lại í a uốn tay, uốn tay ta lại ốn tay (uốn cho mềm mại để năm nay í a chèo vào),

Duyên ai hờ che phận (ớ đôi người ơi, ở đối là đôi người ơi, giang tay bắt mái Thời ta í a chèo vào);

Ta chèo cho thẳng í a cánh tiên (bắt con vịt nước thời ta í a chèo vào);

Chèo vào xa xá chèo vào (bắt con vịt nước thời ta í a chèo vào);

Đôi í a tay nâng lấy mái chèo (tai nghe trống điểm chiêng kêu í a nhịp nhàng)

Non bồng bích nhược nơi mọi nơi (du xuân chèo chải ngược xuôi í a non bồng)

Nhẩn nha à a tay uốn khúc dòng đi chơi nước nhược non bồng le éo le).

Cầm cờ:

Hôm í a nay bước xuống hải hà (cầm cờ chỉ núi, núi đá ở chốn linh tiên).

Múa cầm quạt

Tay í a tiên rót chén rượu đào (không uống thời tiếc uống vào thời say).

Múa ca ngợi:

Trên...giời...dưới đất bụi bay (má hồng vẫn đẹp tốt thay í a nhiều bề).

Dâng câu đối:

Sân rồng...bể ngọc...phượng múa...đền rồng...chúng tôi đây quỳ xuống sân ồng...dâng câu đối vài câu chúc tụng...

Hát ru con:

Tiếng hát ở nỉ, ớ non, ớ người, ở ngoan, ớ ơi ơ rằng;

Tiếng hát ở nỉ, ở non, lạc vào tôi mà như vượn, ủ con là ủ con trong rừng, là ớ ủ on là con trong rừng.

(Nói vọng): Này chị em ơi! Mua mái đã qua chị em ta giở ra múa quạt nào.

Múa cầm quạt:

Quạt này là quạt mát tứ quý bốn mùa đâu đâu cũng mua đem về làm quạt.

Quạt í a thiếp tôi, có mười chín í a chín í a chín xương...ai cầm tôi mà lấy quạt.

Quạt rách tôi mà mặc quạt í a thì nương là nương lấy màu, là ở thì nương là ương lấy màu.

Khi nắng thời anh che đầu, suốt đời anh mà cầm quạt í a, đi đâu là đầu ở đâu anh ầm, là ớ đi đâu là ở đâu anh cầm.

Múa uốn tay:

Vậy iii có thơ rằng...nước nhược non bồng iii lòng giăng díu,

Vì duyên đằm thắm iii...có bao xa, Ngẫu phúc dạt dào iii...khó vào ra,

iiii...tôi dám khen các thầy nho sỹ học à học trò, là đi ở thị í a là thi đi thi, đi thi ho đỗ, ngự đà ta nỗi ngự đà, văn ới văn chương, ngự ở đà ta nỗi ngự đà con cá nó là vi ở vị vuông,

Lá ngọc cành vàng loan phượng có đôi, à mà như đỏ có đôi ư hừ,

Rẽ mây mà xuống đánh đồng giúp anh là gió hiu hiu,

liii hạch bạch hoàng nà iii...mấy cũng là.

Thuyền...ớ....đà tới bến í à anh ơi (cắm sào cho chặt ấy cùng vào chơi ăn giầu),

Này này ai ơi thuyền đã tới nơi thở than một chút vài lời vấn vi (ớ cùng già ơn),

Người ở nghỉ ở là tôi về, ấy tình tình tang, ấy lòng còn đang mà thương nhớ,

Biết bao giờ, biết có bao giờ, nên đạo í a chồng con, kìa chim thái quy, kìa như líu rít, là ở quy lâm quỳnh là quỳnh lâm ơi.

Múa chèo hát dô khoan:

Ríu rít à rít ơi a trên non, li kìa còn nhớ là nhớ hay quên, Em như, em như cái bức huê hiện (hồ khoan),

Anh đây muốn kết bạn quên chút cùng (khoan ới dô khoan),

Có được hay không lòng mừng một chút (khoan ơi dô khoan),

Có huê sen tốt mơ tưởng đêm ngày (Khoan ơi dô khoan), Huê lý, huê lài, huê cà, huê cải (khoan ới dô khoan),

Huê bông, huê vải, huê liễu, huê dong (khoan ơi dô khoan),

Huế cậy, huế dong, huê bù, huê bí (khoan ơi dô khoan), Có huê phong nhị nở ra thơm cay (khoan ơi dô khoan), Một trăm thế huê anh đã từng bẻ lấy (khoan ới dô khoan), Anh đã từng cầm lấy (khoan ới dô khoan),

Còn một huê ấy chưa được chút nào (khoan ơi dô khoan),

Cần cảnh ra vào tiên sinh trình độ (khoan ơi dô khoan, khoan hỡi hỡi dô khoan, khoan hỡi hỡi dô khoan, khoan hỡi hỡi dô khoan, khoan dô khoan).

Kết thúc Trò Thủy

5.2.2.9. Trò Nữ quan

Ý nghĩa của Trò diễn:

Trò Nữ Quan là một trò múa hát gắn liền với đời sống tâm linh của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước từ lâu đời. Đây là một trò diễn gắn liền với nghi lễ tế thần ở các Tiền miếu trước đây cũng như hiện nay.

Hình thức trình diễn:

Gồm có 15 diễn viên, trong đó: 1 tiên cái, 8 tiên nữ, 1 sư, 1 công tử, 3 thợ đúc chuông và 1 hổ. Trò này được bắt đầu như sau:

Tiên cái hát:

Nay tôi ra đây ở rằng vậy! “vậy làm sao”,

Tiếng chuông vang mõ vang nay dập dềnh

Phủ xưa Tuyên Hóa tuyết thanh minh

Bạc nghìn tấn cổ kho vô tận

Tiên thiều lễ nhạc thong dong

Cỡi mây bay xuống đầu hồng quan cai

Tứ phương con gái trong ngoài

A-di-đà- phật như lai độ trì

Liệng đá chứ qua rồi chứ đang gàu

Đang gàu tát biển chức ghẹo người chứ trong cung

Sánh gái chứ thuyền quyên chế trai anh hùng

Trai anh hùng sánh phượng chứ đẹp duyên chứ cưỡi rồng

Giờ bể chứ mênh mông

Nương nở mới nương nồng.

Công tử hát:

Bóng hồng ta kìa lác thấy,

Ngọn đèn ta kìa thấp thoáng

Cái bạn là bạn quần thoa

Nết na nết na yểu điệu

Ta kìa là cái mái tóc xanh

Ta kìa là cái răng trắng phau

Ta kìa là cái mái tóc xanh

Răng cô mi đen chói hạt

Hỏi cô là có chồng chưa

Đó với đây không duyên mà nợ

Ta với mình là mình gặp nhau

Buổi đầu là buổi bắt đầu

Buổi đầu là buổi mới quen

Buổi mới ta không dám nói

Cùng mình nhưng hỏi nhời đi

Xin cho giọng cho tôi một nhời.

Tiên cái hát:

Tay tiên chúc chén rượu đào "tay tiên" chúc chén rượu đào,

Chứ tay tơn tay tín chúc chén rượu đào chứ tay tiên

Mời phu quân xơi rượu.

Công tử nói:

Tay tiên chúc chén rượu đào,

Không uống thời tiếc, uống vào thời say.

Tiên cái nói:

Xin cạn chén này mới công tử xơi rượu.

Công tử nói:

Hảo tiểu lạc hà,

Uống một chén thu long hạ huyết

Uống hai chén phát năng đảo địa

Uống ba chén phát nằm trơ trơ.

Bà sự xuất hiện:

Mô phật mô phật, ta ra đây chính là thầy đường tăng,

Đi tây bắc lấy kinh nơi non nước chốn này

Chín chín căng căng này tiên cánh tục

Sang tây thiên độ thế ân cần

Án ma ni là án miệng hầu

Ni na án là hầu miệng bắt.

Hát múa tập thể:

Chúc mừng muôn tuổi chúa công,

Thuận hòa một dải non sông vạn thành

Khen cho ái khéo họa hình

Long xa thủy cũng hữu tình đắm say

Dấu thiên thiên bản phủ dày

Hương bay ngào ngạt tới kỳ phủ sương

Trông lên choi chói tòa vườn

Huê quỳ phượng múa hai hàng nhẫn nha

Thanh minh trong tiết tháng Ba

Mẫu thường vãn cảnh hái hoa đại đồng

Tiên thiều lễ nhạc thong dong

Cỡi mây bay xuống đầu hồng quản cai

Tứ phương con gái trong ngoài

A-di-đà-phật như lai độ trì

Bọt bèo bể khổ rộng mê

Nhờ tay thế độ đi về thảnh thơi

Hoa đào trúc tuệ lập loè sáng soi

Biên người có đạo chép người có biên

Da da lắm lúa nhiều tiền

Lắm con nhiều cháu thua hèn một hai.

Thợ đúc chuông hát:

Chị em ơi. Tôi ra đây tôi xin đúc chuông đồng,

(Chuông chứ chuông này)3

Nấu đúc í à đổ ra

Đem ra í..à..mà đánh

(Chuông chứ chuông này)3

Nấu đúc í à đổ ra Mang ra í.à…mà đánh

(Vua cha chứ tin dùng)3.

Một thợ đúc chuông nói:

Chị em ơi tôi đã đúc chuông xong rồi,

Tôi xin đánh ba hồi chín tiếng

Chuông chứ chuông này

Tập thể hát:

Tích đức mà tu nhân chứ lòng thành,

Lòng thành tích đức mà tu nhân

Đêm ngày mà mơ tưởng

Muôn dân muôn dân an toàn

(í hầu)3 là hầu..ới.hi

Nhịp bước mà khoan ới khoan chứ lòng thành

Lòng thành nhịp bước mà khoan ới khoan

Hai vai í à gánh nặng sớm hôm sớm hôm tập tành

(í hầu)3 là hầu..ới.hi

Cho đáng mà nên trai

(Chứ mà làm trai)3 ý phương ý á là trai

Tây phương tây phương còn dài (í hầu)2 3 là hầu...ới hi

Tích đức mà tu nhân chứ tu nhân lòng thành

Tích đức mà tu nhân (cho đáng mà nên trai chứ mà làm trai)2

Lý phương í.à là trai “Tây phương”2 còn dài “í hầu”3 là hầu là hầu ới hi.

Kết thúc trò Nữ Quan.

5.2.2.10. Trò Tú Huân

Ý nghĩa của Trò Tú Huân:

Tú Huần là trò diễn phổ biến ở Thanh Hóa. Ở Đông Sơn có nhiều nơi có trò Tú Huần. Văn bản trò Tú Huần ở Bôn khác với văn bản ở Đông Anh và ở Hoằng Hóa. Ở Bôn, trò này được diễn vào dịp tế Đăng quận công Nguyễn Khải. (Trò Tú Huần còn gọi là Hú – Huần), là một cảnh có lời ca. Theo nhiều phụ lão Đông Anh kể lại, thì Tú Huần là tên một người có nhiều công trong việc sáng tạo ra điệu Dân vũ Đông Anh. Tú Huần quê ở thôn Nguyệt Quang, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh vào cuối đời Lê, mất vào khoảng Minh Mệnh (triều Nguyễn), xuất thân là con nhà võ. Tú Huần đã đi nhiều nơi sau trở về quê ông đã dựa vào lối ca vũ dân gian cổ truyền để sáng tác ra trò này, và người ta lấy ngay tên ông mà đặt tên trò.

Ở Hoằng Hóa, trò Tú Huần được biểu diễn vào dịp tế lễ Đức Thánh Cưu (?).

Ông Cưu Sơn ở Trung Quốc sang ta, tự cậy là khỏe, tìm đến thôn Đức Giáo sinh cơ lập nghiệp, ông thách ai nâng nổi một hòn đá rất lớn, không ai dám nhận lời, Từ ông Bưng (tức Lê Phụng Hiểu). Từ đó, ông Cưu Sơn nhận ông Bưng là anh, vì thế trò Tú Huần thường biểu diễn cùng với trò chèo chải. Ở Hoằng Hóa (xã Hoằng Quỳ), trò này gồm một mẹ và mười con đeo mặt nạ. Ở Thọ Xuân (xã Xuân Trường), cũng có trò Tú Huần. Lời của trò Tú Huần ở đây giống với lời của trò Tú Huần ở Đông Anh.

Trò Tú Huân ở Đông Anh có một mẹ, 12 con. Người biểu diễn mang mặt nạ bằng gỗ. Mặt nạ dài, nom hiền hậu. Mặt con khôi ngô đẹp đẽ. Riêng đứa út mặt bụ

Trò Tú Huần ở Đông Anh có một mẹ và mười hai con. Người biểu diễn đeo mặt nạ gỗ: mặt mẹ niên lành, mặt con khôi ngô đẹp đẽ, riêng đứa con út bụ bẫm, hai hàm răng còn là răng sữa. Trang phục: mặc áo dài đến gót chân, cúc cài ở giữa như lối áo tứ thân; phía trên cổ áo bé ra như cổ áo sơ mi, vải áo màu xanh xanh, mốc mốc có kẻ sọc và thắt lưng xanh ở giữa bụng. Khi mua các nghệ nhân biểu diễn các công việc như cày, bừa, học hành, kiếm củi, chơi nghịch. Vừa múa vừa hát, có trống đệm. Khi múa người đứng thẳng, hai bàn chân xòe ra hai bên, hai tay chống nạnh. Đó là tư thế bắt đầu, tiếp sau các nghệ nhân xê dịch bàn chân khi tới khi lui, khi sang ngang, hai tay múa mềm mại.

Hình thức trình diễn của Trò Tú Huấn:

Nhân vật và hóa trang:

Bố: mặc áo thụng và chít khăn hoa,

Mẹ: mặc áo năm thân trùm khăn mỏ quạ,

12 con: mặc áo tứ thân, thắt lưng xanh, đầu chít khan xanh, tay cầm xênh. Khi biểu diễn phía trong có người gõ trống bản.

Trình Diễn:

Bố và mẹ bước ra trước và hát:

Thái hòa cảnh thượng,

Vạn vật hồi xuân,

Trên chín lần xiêm áo, đai cân,

Dưới trăm họ âu ca cổ võ,

Nhớ xưa, tích cũ,

Trò này ở nước Tú Huần,

Cha mẹ dạy con cái đều vâng,

Họ ca khúc để làm thiện nghệ,

Mùa xuân đã đến,

Tìm gọi các con về,

Tập tành dạy dỗ cho nên,

Này là mười hai con mẹ.

(Theo nhịp gõ xênh, mười hai con tiến ra xếp thành hai hàng đi từ hai bên ra vừa đi vừa gõ xênh vừa múa theo nhịp gõ trống bản ở phía sau, các con múa. Nghe ba tiếng rống, các con dừng lại người hơi ngả về phía sau, ngực hơi ưỡn, chân phải bước lên, hai cánh tay giang rộng và thẳng, hai bàn tay lật ngửa, gõ ba tiếng nữa con trò bước lên một bước, đập xênh vào nhau. Theo nhịp trống trở lại động tác ban đầu. Đàn con tiến lên, bố và mẹ ở giữa, mẹ tiến về phía trước hát đặt tên cho các con):

Mẹ sinh ra, mẹ phải đặt tên,

Đứa thứ nhất, ra đường hay Gõ,

Mẹ mới đặt tên là tú Xênh.

Đứa thứ hai ăn nói khệnh khạng những rượu cùng chè,

Mẹ mới đặt tên là tú Chén.

Đứa thứ ba dáng người cần kiệm,

Mẹ mới đặt tên là tú Chí.

Đứa thứ tư, buôn kim, bán chỉ,

Mẹ mới đặt tên là tú Vá.

Đứa thứ năm thạo nghề tôm cá,

Mẹ mới đặt tên là tú Ngư.

Mẹ mới đặt tên là tú Mẫn.

Đứa thứ bảy công việc cẩn thận, ăn nói đoan trang,

Mẹ mới đặt tên là tú Khá.

Đứa thứ tám buôn trâu, bán chả,

Mẹ mới đặt tên là tú Bét.

Đứa thứ chín đứa con mất nết,

Mẹ mới đặt tên là tú Khưm.

Đứa thứ mười ăn nói lươn tươn,

Mẹ mới đặt tên là tú Trá.

Đứa thứ mười một tính hay cát nhỏ,

Mẹ mới đặt tên là tú Lém.

Đứa thứ mười hai, của mình chẳng muốn mất cho ai,

Của người ta lại muốn làm hai ba vào,

Mẹ mới đặt tên là tú Khẻn1

Mẹ hát xong. Tất cả múa và đi theo hình tròn sau đó tất cả kéo vào.

Kết thúc trò Tú Huần

5.2.2.11. Trò Thiếp

Ý nghĩa của trò Thiếp:

Trò Thiếp xét bề mặt hình thức, thì từ tên trò cho đến lề lối, giọng điệu, đều dựa theo tục đánh đồng thiếp, một tục mê tín của người xưa, không liên quan gì đến sản xuất và nông nghiệp. Nhưng xét về mặt nội dung thì trò Thiếp lại nhằm đả kích, chế giễu bọn thầy cúng; Thầy phù thủy chuyên sống bằng nghề đồng cốt, cúng bái, bài thỉnh, là những bài nói về các giống hoa, các giống vật với một phong cách độc đáo, vừa có tính chất hoạt kê vừa biểu hiện nội dung trữ tình.

Trò Thiếp cũng là một hoạt cảnh có lời ca, gồm có sáu người tham gia biểu diễn. Một thầy cả đứng riêng một chiếu, bốn đồng phụ đứng bốn góc chiếu và một Tín chủ hành lễ. Cả năm thầy đều do nữ đóng; riêng Tín chủ là nam đóng. Tín chủ ăn mặc lối nông dân, đầu đội khăn xếp; còn năm người kia thì trang phục rất rực rỡ: áo nhiễu đỏ, quần xanh, thắt lưng xanh, đầu vấn khăn nhiễu đỏ (có khi kết lụa). Thầy cả và Tín chủ là hai nhân vật quan trọng nhất của trò. Động tác múa rất mềm mại và đòi hỏi khổ công luyện tập. Theo lời những nghệ nhân đóng trò này, động tác “bắt quyết” phải tập rất lâu (có khi mát hai tháng), vì phải tập đêm, ngày lại nghỉ, rồi mới tiếp tục tập để tránh đau xương. Âm nhạc có trống lớn, trống con, thanh la, não bạt dùng khi chuyển điệu và đàn, sáo khi hát làm văn, làm chúc.

Trò này khá dài, ở đây chúng tôi chọn và tóm tắt theo văn bản có giá trị phổ biến nhất. Đặc biệt phần đối thoại giữa Thầy cả và Tín chủ ở đoạn đầu có tác dụng đấu tranh tích cực chống mê tín, chế giễu tư cách hủ lậu của bọn đồng cốt. Có lẽ đó cũng là tinh thần của trò này.

Hình thức trình diễn:

Trò này gồm có 3 vai diễn, cụ thể như sau:

Tín chủ:

Tín chủ tối nay chúc nhang một chuyện

Làng ta đây có những nhang hào

Mùi nhang tôi đốt ai cũng tìm vào

Mùi nhang tôi đốt kêu thiên cũng thấu

Văn làng ta đi thi là đậu

Mở áng ra nức tiếng vẻ vang

Mùi nhang tôi đốt ngát cả trong ngàn

Mùi nhang tôi đốt ấy là tử tôn nhang tệnh.

Thầy hai (hát):

Thồng thồng cờ phất ngẩu lôi

Thuyền quang sứ giả nghe tôi đánh đồng

Phật truyền ai cứ hỡi ai.

Thiêng thời bước xuống đánh đồng giúp tôi

Mõ ba hồi bốc lên ném xuống

Đền áp vào dũng mãnh phi phong

Chữ rằng lễ bạc tâm thành

Rượu thời cho đủ ba vò

Ít thời một bát không cho cũng đòi

Chữ rằng lễ giã từ nghi

Chẳng nề nhiều ít quản gì công lênh

Chữ rằng vì đạo vì sư

Ai ai cũng phải nhởn nhơ đèo bồng

Lấy ai đắc đạo tam tòng

Đền thờ am cứ, áp hai vai đồng

Cấp xoan sinh, tiền đốc, hậu phách

Ta nghe tính tình tiếng đức tiếng chiêng

Các bộ tiên nường ta hãy chèo chơi

Chèo cho thuyền lội a phao bơi

Chèo cho thằng lái sang chơi tềnh đồng tình

Đồng tình ta sẽ đồng tình

Biển Đông ai tát một mình với nên vơi

Việc đồng có làng có tôi

Đồng đã ngã rồi chong chóng hỡi ai.

(Nói):

Hời hời chủ tướng ta ơi,

Đồng đã ngã rồi, xin quan tướng bước vào xem mặt

Áo đen thời mặc mũ phục đội đầu

Lưng thắt bao hầu

Truyền cho phong hỏa

Lệnh thầy sai các ngôi các ngả

Đã xuống đến đây thầy cắt việc quan

Nhất độc nhị đời, xin quan tướng bước vào đánh trước

Chủ binh áp mặt, cùng áp hai vai

Quan tướng đã sai, tam danh ngẫu lôi thấy kéo

Súng hồ đôi triệu, đánh tả hữu đồng

Quan tướng đã xong, hỡi trai ta hỡi.

Tín chủ:

Ới thầy ơi! Bịp kêu

Thầy cả:

Bịp kêu đằng nào hả các con?

Đông phương tây hạ bắc hữu tài

Đông phương thầy bổ đông phương

Thầy sai quan tướng âm dương độ trì

Nam phương thầy bổ nam phương

Thầy sai quan tướng âm dương độ trì

Bắc phương thầy bổ bắc phương

Thầy sai quan tướng âm dương độ trì.

Nói: Bố tín chủ kia,

Tín chủ: Kìa kìa mà dạ dạ,

Thầy cả: Vào đây thầy phán lễ,

Tín chủ: Ới thầy mà thầy ơi! Thầy phán gì phán mau phán chóng, tôi còn đang giở việc nhà.

Thầy cả: (Phán):

Thượng đàn: Một trâu, một dê, một lợn,

Trung đàn: Chuối ba buồng, oản 18 chiếc, trôn mâm bánh xe mà đóng.

Hạ đàn: Nồi 30 cháo, nống nổ tiền lương, tả hữu đôi bên trâu bò chín chục.

Tín chủ: Ấy ấy thầy ơi. Thầy phán như vậy thì thầy nghỉ, tôi về.

Thầy cả: Thế thì: Một nải chuối tiêu, một niêu cơm nếp thì sao?

Tín chủ: Dạ dạ y lời (bắt đầu cúng):

Tâu đức Thành hoàng chàng vạn tuế muôn thu,

Đức Đại vương giáng đức trừ tai, hội đồng xã ta bình an khang thái,

Nhận lắng nghe tôi khôi hài phước tính,

Sắc sắc thiên quảng linh đình, địa quang linh linh.

Bảo toàn xã ta văn võ thiện quang; Tả thiên đế chấn cung trường xuân thanh hỏa thiếp, nay là tiết xuân thiên tả bảng kỳ đo liệt, tướng nam giới phi phong chỉ huy khôi hài phước tính. Xã ta hội đồng phù lưu bách tài như đã phá, chẳng nề do dự cờ chỉ huy là cờ phật tốc giáng.

Thầy hai: Khâm sai vạn vạn tinh binh, sai thần thông lộc chữ tinh tam tà, lệch nghe ba tiếng phả la. Phèng phòng dạ dạ ngũ là bát quái ngũ là bát ngôn;

Trường sinh súng lại đổ dồn, đùng đùng nghe chim kiểu khách cầm canh dịu dàng. Đàn chung ta chấn đã yên. Chúc mừng thánh đế thiên niên thị trường.

Thấy hai: (gọi) Nhà ta có khách - Nhà ta có khách, Tin chủ: Khách kêu đằng nào? Khách kêu đằng nào?

Thầy Cả hát: Đông qua rồi lại sang xuân, rủ nhau gặp mặt, tấn tần làm vui, làm nghề đổ bát khoe tài, chia làm 5 điểm ta ngồi năm phương. Trăm hai binh mã sa trường; binh xanh, binh trắng, binh vàng, binh đen. Nào con cửu vạn cầm quyền, tam vạn tam sách lại chờ thất văn.

Tướng băn khoăn trong lòng buồn bực. Bốc bài lên có cực cùng chăng, trong tay cầm những phu nhang, có phong chăng phỏng, có chờ chẳng đi. Hay là tướng có bổng chi, để làng bắt được tướng đi chèo đò.

Thấy Hai: Ví dầu sớm biết nhau ra, làm cho lá ngọc nỡ xa cành vàng; loan phượng có đôi. Nường nường ơi! Ơi hỡi nường loan phượng có đôi, đôi ta như đũa có đôi, không tôi quan tướng bồi hồi nhớ trong á lệch thầy sai. Nường nường ơi hỡi nường.

Lệch thầy sai, tớn nữ mà tớn cung, rẻ mây cô đồng bước xuống đánh đồng giúp tôi, gió hiu hiu. Nường nường ơi hỡi nường, gió hiu hiu ngồi tựa năm canh, quan tướng màn chẳng xét để sự tình vấn vi si ta thương nường. Nường nường ơi hỡi nường, ta thương nường như lá đài bị. Ngày thời giãi nắng, đêm thời giãi sương, ấy búi tơ vương. Búi tơ vương, ruột tằm còn đang quấn quýt, sợi chỉ đều xe quấn xe quýt, nội người giòn xe duyên, dẫu có thiêng rước lấy hồn về. Chữ dục là muốn chữ tùy là theo ấy vậy cho nên đông liễu tây đào.

Chấn ở 5 cung, 5 cờ chốn ở 5 cung. Chấn ở 9 cờ dẫn đồng đi chơi a há đi chơi, đủng đỉnh bên sông thuyền ai đủng đỉnh bên sông. Hay là thuyền thiếp dẫn đồng đi chơi. Có chăng chuông 9 chuông 10, thực thời có ít dối thời a há trang trang. Khách tri âm, khách trị âm có thấu tình trăng nhẹ, để ông ngồi chờ đợi dưới trăng tôi hỡi nường, biết đã có thấu nỗi tình chăng, cành sơn trang í hà í hây, hai tay mà dan díu hầy hối ha. Cống ơi cống sang hồ thà rằng cống líu hồ sử sang. Hỡi anh yêu hầy hối ha thay thảy hỡi nường, mẹ nường chứ để nội đứng trong tôi vườn đào, bước vào mào í hà í hầy, xem bằng áo tố hầy ới ha, áo kiềng xanh thì rằng chí chỗ bảo nhau, chí chỗ bảo nhau, nội dầu thông tôi không có biết, nội dầu thô tôi không có tường, ta đưa nhau lên núi chúc mà ngàn lau, lên thông mà tích khí hày ối ha tồi à mừng. Vốn xưa ăn tuyết mà nằm sương, công thầy luyện tập, nội khói hương tôi lên ngàn, bây giờ tướng đó thầy đây, sơn lâm hầu dễ một ngày làm nên, nhẽ xưa chủ tướng dám quên, hay là ta trót lời thề cùng ai. Làm thầy chớ có đơn sai, 8 tướng trai cùng 12 tướng gái, ăn ở ra lòng bên cái gió trăng. Một lòng khẩn khẩn lòng thành, chúc mừng thánh đế thiên niên thọ trường.

Bông bông tầm, bông tập tầm bông,

Trò thiếp chúng tôi tôi đã làm rồi

Đập dập đi thi chiếm bảng khối khoa,

Võ có văn cho thiên hạ hoàng,

Văn có võ cho thiên hạ cậy,

Chúc mừng thánh đế, thiên niên thị trường.

Kết thúc Trò Thiếp

5.2.2.12. Trò Ai Lao

Ý nghĩa của Trò Ai Lao:

Trò Ai Lao là một trò diễn mang tính chất miêu tả lại mối quan hệ bang giao hữu nghị giữ hai nước láng giềng Việt – Lào cùng chung sức chung lòng chống kẻ thù chung giành lại nền độc lập. Tấm lòng của bạn mừng nước nam:

Mừng nước Nam thái bình hữu tượng,

Chúc Nam bang cộng hưởng hòa bình.

Ngợi ca tình đoàn kết gắn bó keo sơn,

Hai nước Việt - Lào mãi mãi đẹp tươi.

Việt - Lào cùng dãy sơn hà,

Quan hệ hai nước gọi là anh em.

Đồng lòng chống giặc một phen,

Góp công, góp sức xây nền tương lai.

Hôm nay đẹp mãi ngày mai,

Đẹp tình hữu nghị lên đài nguyệt thanh.

Con trò và đạo cụ: Trò Ai Lao có 4 nhạc công, 6 con trò:

Nhạc công: 4 người có 4 vai:

Một người đánh trống gõ;

Một người đánh mẽ;

Một người kéo tứu;

Một người đánh mèng mèng.

Con trò gồm 6 người, có 5 vai:

Một người thông sự;

Một người che lộng;

Một người dẫn cản;

Hai người vác ngà voi;

Một người con gái.

Đạo cụ của nhạc công:

Một cái gõ;

Một cái mõ;

Một cái tứu;

Một cái mong mèng.

Đạo cụ của con trò:

Một mũ cánh chuồn;

Một cây lộng;

Một mâm vàng;

Mười thanh vàng;

Hai chiếc ngà voi;

Một dây cân thu dài có quả đào có ống vôi và cây dao quai nắp;

Một cái mũ cánh chuồn.

Trang phục của nhạc công:

Bốn bộ áo đỏ quần trắng;

Bốn cái khăn chít đầu xanh;

Bốn cái khăn chắt lưng vàng.

Trang phục của con trò:

Thống sự: Một bộ quần dài trắng, áo vàng 2 thân có hoa văn;

Người che lộng: 1 bộ quần áo, quần dài trắng, áo gấm bà ba màu xanh chàm, một khăn chít đầu có hoa văn,

Người dẫn cản: 1 bộ quần áo, quần dài trắng, áo ngắn màu xanh (áo bà ba), một khăn chít đầu có hoa văn;

2 người vác ngà voi: 2 bộ; quần đen màu chàm, váy dài quấn dưới có hoa văn; áo trắng 3 thân màu chàm hoặc màu xanh lơ; khăn vấn đầu có hoa văn, khăn vấn lưng màu đen hoặc màu xanh.

1 cô gái: 1 bộ váy đen dài, dưới có hoa văn, váy quấn; áo trắng, áo bà ba, khăn lưng màu xanh nhạt, khăn chít đầu có hoa văn, 3 cái yếm trắng, một dây chân thun dài bằng bạc có quả đào ống vôi có con dao quai nắp (tất cả vải chất liệu mỏng, tốt).

Hình thức trình diễn:

(Đầu tiên tất cả 6 nhân vật cùng ra một lúc có mang theo đạo cụ được phân vai). Từ ngoài bước vào sân khấu đi lên một vòng thành hàng ngang để chào khán giả, xong đi xuống thành 2 hàng dọc, mỗi hàng có 3 người:

Hàng thứ nhất: Thông sự và dẫn cản đứng trên;

Hàng thứ hai: Che lọng và cô gái;

Hàng thứ ba: Hai người vác ngà voi.

(1 Thông sự hát và múa tại chỗ, 2 tay múa 2 bên và vòng lại chắp tay trước ngực như người bái)

Thông sự: (hát)

Ở vậy ở vậy,

Nhà vua trường thọ

Thánh đế muôn niên

Chính thực tôi là thông sự ngoại viên

Tôi xin dẫn Ai Lao nhập cống.

(Tất cả lượn 1 vòng xong lại về vị trí cũ)

Thống sự vẫn múa:

Tập thể: (hát) Đất Ai Lao vốn ở núi rừng thì,

Song lại có minh quân hiền tướng

Xem các nước cạn dạo viễn lại

Chư vương thần tạc lòng muôn kiếp

Nước Lào tội trèo khe, lặn suối

Tới kinh kỳ 19 thu nay

Nước Lào tôi thổ sản nhiều voi.

(Từ 2 hàng dọc thành 1 hàng ngang, thông sự ngà voi 2 bên, 2 người nâng mâm vàng đứng giữa, dẫn cản và cô gái đỡ mâm vàng. Tất cả quỳ 1 chân, một chân quỳ gối)

Đồng ca hát: Nước là tôi thổ sản nhiều voi,

     Mừng Nam Việt thái bình hữu trượng

     Ngà một đôi vàng dắt 10 thanh

    Tiến chủ lòng thành tiến vào dân quốc.

(Tất cả đứng lên thành 2 hàng ngang hát đồng ca, thông sự múa như ban đầu)

Đồng ca hát: Bỗng long xong cái mong tình sảng,

Hỏi thăm nhà Bá Tú hạng ở nơi mô

Tôi ở trên Mường tôi mới xuống đây

Mừng nước Nam thái bình hữu trượng

Năm Ất Dậu thu thiên ảnh hưởng

Chúc Nam bang cộng hưởng hòa bình

Đem vàng sánh bước đồng minh

Lời vàng trải giữ nền độc lập

Việc giang sơn gia công bồi đắp

Dốc một lòng chống với ngoại xâm

Hào cơ khí cùng lượng quân đội

Tôi lân bang nghe hội quyền vàng

Lòng tôi sẵn đưa sang quy nạp

Quyết định lòng thành dân quốc chúng tôi.

(Tất cả đi thành một hàng dọc đi xuống để đạo cụ và đi lên thành 2 hàng dọc để múa điệu lăm vông. Tay lên tay xuống, bên nọ bên kia theo nhịp trống đánh).

Đồng ca hát: Mừng vui non nước trùng trùng,

Chạnh miền a lại nhớ a non a bồng thanh chốn thanh

Ở thời sơ lạnh a thiên đình

Về thời nhớ khách khoa danh a này chốn này

Dâng lên chầu chực ý a điểu vàng

Gọi rằng để dấu tiên vương a trần cõi trần

Dâng lời bái tạ a thiên đình

Bay theo 2 cánh bạc Đồng Tân về lại về

Nguyệt thanh in bóng Quỳnh Khê

Còn nền phúc chỉ xin ghé chầu lại chầu

(Tất cả thành hàng ngang lên để chào)

Đôi tay dâng chữ vô cương,

Tiên vào phúc chỉ bốn dân cường thọ cường.

Kết thúc Trò Ai Lao.

https://youtu.be/luT-TFMRm00

Hình ảnh Dân Ca Dân Vũ Đông Anh

Xem tất cả
Dân Ca Dân Vũ Đông Anh

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật